2.1 Lịch sử phát triển mía đường ở Việt Nam
Cây mía Việt Nam đã có từ lâu. Rất tiếc chúng ta không có nhiều tài liệu về cây trồng này. Theo "Giáo trình cây mía" của Vụ Đào tạo Bộ Giáo dục Cuba (1963) viết: ... liên quan đến cây trồng này (cây mía) người ta đã gặp một tác phẩm của Trung Quốc thế kỷ II trước công nguyên (Dr. Bretschneider) và một tác phẩm Trung Quôc khác thế kỷ IV mô tả cây mía như sau: "Cây Kan-che (kan là ngọt, che là tre; Kan-che là cây tre ngọt) sinh trưởng ở Cochinchina (vùng Nam Bộ Việt Nam) có đường kính lớn vài pul (1 pul = 2,5 cm), trông giống cây tre và rất ngọt. Nước lấy ra từ thân cây đem phơi nắng sau vài ba ngày sẽ chuyển thành đường". Tác giả Lý Văn Ni (Đài đường thông tin ngày 2/8/1976) viết: "Cây mía và nghề chế biến đường cổ xưa ở Trung Quốc đã được du nhập từ Giao Chỉ (Việt Nam) đến Quảng Đông, Hồ Bắc,... là vùng biên cương của nước Sở thời Chiến Quốc, rồi vào Trung Nguyên". Theo tác giả Trịnh Khương (Đề tài 18B.02.05, 1991), cây mía và đường thủ công của ta đã từng được sử dụng làm cống phẩm cho các triều đình phong kiến phương Bắc từ năm 206 trước công nguyên thời Hán Cao Đế và cũng là mặt hàng khuyến khích xuất khẩu được miễn thuế của triều đình các chúa Nguyễn sau này.
Cùng với cây lúa, cây tre, cây cau, cây dừa..., cây mía Việt Nam có thể được xem là một cây trồng dân dã, bởi lẽ nó rất quen thuộc và gần gũi với đời sống sinh hoạt của người nông dân chúng ta. Vịnh về cây mía, Cụ Nguyễn Trãi đã viết hai câu thơ đầy ý vị:
"Ăn nước kia ai được thú
Lẩn từng đốt mới hay mùi".
(Theo Xuân Diệu).
Thật vậy, từ xưa tới nay, ít có gia đình nông dân nào trong mảnh vườn của mình lại không có vài ba khóm mía. Cây mía dùng để ăn tươi (giải khát), chế biến các loại đường mật và có khi còn dùng để làm cả vị thuốc chữa bệnh. Trong nhiều câu chuyện dân gian, và ca dao, tục ngữ, hình tượng cây mía đã được khắc họa như một chất liệu trung tâm :
"Mẹ già như chuối bà hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau".
(Theo ca dao).
Hiện nay, trên đất nước ta từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau còn gặp rất nhiều loại mía nguyên thủy - tổ tiên của cây mía công nghiệp (mía lai) như mía gie (Saccharum sinense), mía quí – noble cane (Saccharum officinarum), mía dại (Saccharum spontaneum)... Loài mía gie có Gie Lạng Sơn, Gie Tuyên Quang, Gie Tản này,... Mía quí có rất nhiều dạng như mía voi, mía đỏ, mía tím,... Loại mía tím phố Cát (Thanh Hóa) còn được gọi là mía tiến (tiến Vua) hay mía thuốc (chữa bệnh). Vùng Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận có mía Thanh Diệu, mía mưng,... Mía mềm, thơm ngọt, nhiều nước dùng để ăn tươi, giải khát. Riêng khu vực Nam Bộ đã thấy hiện diện 3 - 4 dạng hình của loài Saccharum spontaneum, một loài mía dại có sức sống mãnh liệt đang được các nhà tạo giống sử dụng làm vật liệu ban đầu phục vụ cho công tác lai tạo, cải thiện giống mía sản xuất đạt nhiều kết quả. Có thể nói, cho đến nay, hầu hết các giống mía đang được trồng trên thế giới và ở nước ta đều là con lai của mía quí (Saccharum officinarum) với mía dại (Saccharum spontaneum).
Với những cứ liệu trên đây, tuy không nhiều, đã làm sáng tỏ phần nào ý nghĩa lịch sử cây mía Việt Nam, đồng thời cũng cắt nghĩa một cơ sở khoa học quan trọng là cây mía của chúng ta đã có từ lâu, nó đã thích nghi, tồn tại và phát triển không ngừng trong điều kiện sinh thái của Việt Nam.
Song song với nghề trồng mía, ở nước ta ngay từ thời xa xưa, ông cha ta đã biết nấu những loại đường truyền thống hết sức độc đáo như mật trầm, đường miếng, đường thẻ, đường phèn, đường phổi,... Với những kiểu lò nấu cũng rất đa dạng, khác nhau giữa các miền của đất nước, từ đơn giản đến phức tạp, song có lẽ do những hoàn cảnh nhất định của lịch sử mà cây mía và nghề chề biến đường mía ở nước ta mới chỉ dừng lại ở đó, chưa theo kịp vói sự phát triển chung của thế giới. Phải tới những năm đầu của thế kỷ XX này, cùng với sự giao lưu buôn bán với các nước Đông Nam Á và sự khai thác thuộc địa của chế độ thực dân Pháp, cây mía công nghiệp nước ta mới bắt đầu phát triển với những giống mía lai nhập của Indonesia như PQJ2878, POJ3OI6 và sau này là một số giống Co của Ấn Độ; F, ROC của Đài Loan; My, C của Cuba; VĐ, QĐ,... của Trung Quốc; K, U-thong của Thái Lan,...
2.1.1 Nghề trồng mía thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời gian 60 năm từ 1870 – 1930, các nhà đầu tư Pháp và Hoa đã đầu tư xây dựng 6 nhà máy đường, nhưng 3 nhà máy đã phải đóng cửa vì không đầu tư vùng nguyên liệu, không đủ nguyên liệu hay không cạnh tranh nổi với lò đường thủ công. Chỉ còn 3 nhà máy Cái Răng, Đồng Bò và Hiệp Hòa có đầu tư phát triển vùng nguyên liệu (đồn điền mía) thông qua đầu tư giống và kỹ thuật nên đã giải quyết được vấn đề nguyên liệu và tồn tại.
Trong khi đó, việc chế biến đường vẫn chủ yếu là đường thủ công, nhất là ở miền Trung như: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Sản lượng đường công hàng năm đạt từ 21.000 – 24.700 tấn. Năm 1940 toàn Việt Nam đã có 38.000 ha mía, năng suất bình quân đạt 21,6 tấn/ha, sản lượng mía đạt 820.400 tấn. Từ 1920-1924, Đông Dương đã xuất khẩu được từ 5.883 - 13.640 tấn đường thủ công.
2.1.2 Tình hình sản xuất mía đường từ sau cách mạng 8/1945 đến 1974
Giai đoạn từ 1946 – 1954 trong thời gian kháng chiến chống Pháp, sản xuất mía đường trong cả nước đều giảm (Bảng 6).
Bảng 6. Tình hình sản xuất mía đường Việt Nam từ năm 1961 đến 1974
Năm |
Diện tích mía (ha) |
Sản lượng mía (tấn) |
Năng suất mía (tấn/ha) |
1961 |
44.000 |
1.415.900 |
32,2 |
1962 |
45.000 |
1.480.000 |
32,9 |
1963 |
47.000 |
1.600.000 |
34,0 |
1964 |
50.000 |
1.730.000 |
34,6 |
1965 |
53.300 |
1.845.400 |
34,6 |
1966 |
47.040 |
1.568.700 |
33,3 |
1967 |
40.000 |
1.300.000 |
32,5 |
1968 |
33.000 |
1.000.000 |
30,3 |
1969 |
29.000 |
886.300 |
30,6 |
1970 |
27.000 |
1.052.100 |
39,0 |
1971 |
27.700 |
1.100.000 |
39,7 |
1972 |
32.000 |
1.260.000 |
39,4 |
1973 |
40.000 |
1.300.000 |
32,5 |
1974 |
47.000 |
1.450.000 |
30,9 |
Từ khu 5 trở ra Bắc trong vùng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm soát như Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi cho đến Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, trong các vùng có nghề mía đường truyền thống cây mía vẫn được sản xuất, tuy ít hơn, để sản xuất đường thủ công tự sản tự tiêu và cung cấp cho bộ đội.
Ở các tỉnh Pháp còn chiếm đóng phía Nam, nhà máy đường và lò đường thủ công đóng cửa, sản xuất mía giảm sút đáng kể, sản lượng đường sản xuất trong vùng chỉ còn 2% đường trắng và 8% đường thô so với thời kỳ trước 1945.
Sau khi Pháp chiếm lại Hiệp Hòa, cuối năm 1945 đã cho phục hồi sản xuất, cho đến 1955 trong 10 năm ép được bình quân 15.839 tấn mía/năm, sản xuất được 939 tấn đường, chỉ bằng 10% sản lượng đường trước 1945.
Ở Sài Gòn tương đối an ninh hơn, Công ty Đường Khánh Hội (1953) xây dựng nhà máy đường tinh lọc Khánh Hội với công suất 70 tấn đường thô/ngày.
Sau Hội nghị Genevơ (1954), ở miền Bắc thực hiện chủ trương khôi phục kinh tế, tiếp tục cải cách ruộng đất, cải tạo quan hệ sản xuất. Ở lĩnh vực nông nghiệp xuất hiện các phong trào như xây dựng hợp tác xã, làm thủy lợi hay phong trào thâm canh tăng năng suất cây trồng. Sản xuất mía cũng được chú ý phát triển trong các vùng sản xuất đường thủ công và các vùng nguyên liệu mía của Nhà máy đường Việt Trì, Vạn Điểm, Sông Lam ở Phú Thị, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh,…
Về công nghiệp, thực hiện chủ trương miền Bắc bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (1961 - 1965), ba nhà máy đường đầu tiên đã được đầu tư xây dựng gồm:
- Nhà máy đường Việt Trì, công suất thiết kế 350 tấn mía/ngày (TMN), thiết bị của Trung Quốc, xây dựng từ 10/1958-1960: Từ 1960-1965, trải qua 6 vụ ép đạt bình quân 80,25% công suất thiết kế, hiệu suất thu hồi đường đạt 10,96 mía/đường. Từ 1966-1969 nhà máy phải chia nhỏ và sơ tán. Đến đầu những năm 1970, nhà máy đã nâng công suất lên 500 TMN, nhưng từ vụ 1969-1970 đến 1974-1975 nhà máy chỉ hoạt động đạt 43,04% công suất thiết kế, hiệu suất thu hồi đạt 12,58 mía/đường. Ngoài đường còn có phân xưởng cồn và than hoạt tính.
- Nhà máy đường Sông Lam, công suất thiết kế 350 TMN, thiết bị cũng của Trung Quốc, xây dựng từ 1959-1960, ngoài đường cũng có phân xưởng cồn. Từ vụ mía 1960-1961 đến 1964-1965 hoạt động bình quân đạt 64,75% công suất thiết kế, hiệu suất thu hồi đạt 10,3 mía/đường. Từ 1965-1972, máy bay Mỹ đánh phá nhà máy tổng cộng 74 trận với 200 quả bom. Nhà máy phải phân thành 2 đợt sơ tán, đồng thời khôi phục sản xuất thủ công để tiêu thụ mía của hợp tác xã. Từ vụ mía 1970-1971 đến 1974-1975 hoạt động đạt 49,26% công suất thiết kế, hiệu suất thu hồi đạt 12,62 mía/đường.
- Nhà máy đường Vạn Điểm, công suất thiết kế 1.000 TMN, thiết bị của Ba Lan và Trung Quốc. Xây dựng từ 1958 - 1961, sản xuất cả đường thô và đường tinh luyện (100 tấn đường thô/ngày). Đến 1970 có thêm phân xưởng sản xuất men thực phẩm. Năm 1972 máy bay Mỹ đánh phá 2 lần phá hủy phân xưởng men, 52 cán bộ công nhân hy sinh. Từ vụ mía 1961-1962 đến 1974-1975 nhà máy hoạt động đạt 47,82% công suất thiết kế, hiệu suất thu hồi đạt 11,58 mía/đường.
Bên cạnh các nhà máy đường lớn, Chính phủ cũng khuyến khích các địa phương xây dựng những cơ sở sản xuất đường nhỏ từ 15 TMN cho đến 100 TMN. Ở hầu khắp các tỉnh đồng bằng trung du miền núi đều có các cơ sở như thế này, sản xuất ra cả đường cát trắng, đường phèn, đường tán,… cung cấp cho nhu cầu của xã hội.
Ở miền Nam, Công ty SREIEO liên doanh với chính quyền Sài Gòn thành lập Công ty đường Việt Nam năm 1957, năm 1963 tiến hành mở rộng nhà máy đường Hiệp Hòa lên 1.500 TMN. Năm 1974 xây dựng nhà máy đường Tháp Chàm (Phan Rang) với công suất thiết kế 300 TMN và Trại nghiên cứu mía Nha Hố. Từ 1966-1968 xây nhà máy đường Bình Dương công suất 1.500 TMN (thiết kế của Hitachi, Nhật Bản), tháng 12/2974 bắt đầu sản xuất thử. Năm 1971 hoàn thành xây dựng nhà máy đường Quảng Ngãi (cũng theo thiết kế của Hitachi, Nhật Bản), bắt đầu ép từ 2/1975. Năm 1970 hoàn thành nâng cấp mở rộng và chuyển đổi nhà máy đường Biên Hòa từ công suất 60.000 tấn đường/năm thành nhà máy tinh luyện đường công suất 200 tấn đường thô/ngày. Đồng thời cải tạo nhà máy đường Khánh Hội thành nhà máy tinh luyện đường với công suất 140-150 tấn đường thô/ngày.
2.1.3 Tình hình sản xuất mía đường từ 1975 đến 1985
Giai đoạn này đất nước đã thống nhất, để đưa ngành mía đường cả nước phát triển, cần tổ chức lại bộ máy quản lý sản xuất, bộ máy nghiên cứu phổ biến kỹ thuật, từng bước kết hợp giữa sản xuất mía và công nghiệp đường (Bảng 7).
Bảng 7. Tình hình sản xuất mía đường Việt Nam từ năm 1975 đến 1985
Năm |
Diện tích mía (ha) |
Sản lượng mía (tấn) |
Năng suất mía (tấn/ha) |
1975 |
52.200 |
1.956.100 |
37,5 |
1976 |
74.500 |
2.986.400 |
40,1 |
1977 |
72.700 |
2.816.800 |
38,7 |
1978 |
71.400 |
2.732.100 |
38,3 |
1979 |
87.500 |
3.490.900 |
39,9 |
1980 |
109.700 |
4.359.800 |
39,7 |
1981 |
110.200 |
3.964.400 |
36,0 |
1982 |
120.800 |
4.576.900 |
37,9 |
1983 |
145.900 |
5.689.500 |
39,0 |
1984 |
165.200 |
6.566.600 |
39,7 |
1985 |
143.200 |
5.559.700 |
38,8 |
Năm 1975 Bộ Công nghiệp thực phẩm thành lập 2 công ty đường miền Bắc và miền Nam bao gồm tất cả các nhà máy đường. Năm 1976 Bộ Nông nghiệp thành lập 5 nông trường mía: 3 ở Tây Ninh (Dương Minh Châu 6.250 ha, Thạnh Bình 6.297 ha và Tân Hưng 5.862 ha), 2 ở Đồng Nai (Cao Cang 1.378 ha và Phú Ngọc 4.000 ha). Đến năm 1980 sáp nhập 2 công ty mía đường và 5 nông trường của 2 Bộ thành lập nên Liên hiệp công nông nghiệp mía đường Việt Nam do Bộ Công nghiệp thực phẩm (CNTP) quản lý. Đến 1982 tách thành 2 Liên hiệp mía đường I ở phía Bắc quản lý một số nhà máy ở đồng bằng Bắc bộ và Liên hiệp mía đường II ở phía Nam quản lý các nhà máy đường từ Quảng Ngãi trở vào cùng 5 nông trường và Viện Nghiên cứu Mía Đường Bến Cát (thành lập 1982).
Tính đến năm 1985, sản lượng mía cả nước năm đã tăng hơn 1976 là 86%, nhưng nhìn chung trong thời gian này tất cả các nhà máy đường đều thiếu mía nguyên liệu, luôn hoạt động dưới 50% công suất thiết kế. Nguyên nhân chủ yếu là trong cơ chế bao cấp, Nhà nước quy định giá mía không hợp lý, quá thấp. Các nhà máy đường không cạnh tranh nổi với lò đường thủ công, nhất là ở miền Nam, nơi có rất nhiều lò đường thủ công (năm 1985 có 3.902 lò đường thủ công, hàng năm ép được khoảng 4,9 triệu tấn mía). Một tấn mía 10 CCS giá mía Nhà nước quy định chỉ bằng giá trị của 20-25 kg đường trên thị trường (bằng khoảng 30% giá trị đường sản xuất được từ 1 tấn mía với tỷ lệ tiêu hao là 12 tấn mía/ 1 tấn đường). Trong khi lò đường thủ công phải mất từ 18-20 tấn mía mới sản xuất được 1 tấn đường kết tinh, nhưng áp dụng biện pháp gia công, trả cho người chủ mía 60% giá trị sản phẩm sản xuất được, nên luôn thắng trong cạnh tranh mía. Nhận biết được vấn đề này, dù Nhà nước rất muốn phát triển công nghiệp mía đường, nhưng do điều kiện bị Mỹ cấm vận, Việt Nam không vay được ngoại tệ để xây dựng nhà máy mới, cải tạo, mở rộng nhà máy cũ. Để sản xuất thêm đường thỏa mãn nhu cầu xã hội, phát triển nghề trồng mía, cải thiện bộ mặt của nông thôn, các địa phương đã có chủ trương khuyến khích xây dựng các nhà máy đường nhỏ cỡ 100 – 150 TMN phù hợp với nguồn vốn và trình độ quản lý lúc bấy giờ. Tuy nhiên do thiếu sự quan tâm chỉ đạo giúp đỡ và phối hợp hợp tác giữa các ngành thiết kế, công nghệ, chế tạo xây dựng và cả quản lý ở cấp vĩ mô nên các chương trình xây dựng nhà máy đường nhỏ cỡ 100 - 150 TMN ở nhiều nơi bị thất bại hoặc kém hiệu quả, chỉ có các nhà máy ở Đồng Xuân (Phú Yên), Diên Khánh (Khánh Hòa), Tân Kỳ (Nghệ An) quản lý tốt tồn tại và phát triển cho đến những năm 2000.
2.1.4 Tình hình sản xuất mía đường từ 1986 đến 1995
Từ 1986 chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước đã giải phóng cho năng lực sản xuất của ngành mía đường (Bảng 8).
Bảng 8. Tình hình sản xuất mía đường Việt Nam từ năm 1986 đến 1995
Năm |
Diện tích mía (ha) |
Sản lượng mía (tấn) |
Năng suất mía (tấn/ha) |
1986 |
125.200 |
4.966.400 |
39,7 |
1987 |
137.100 |
5.467.400 |
39,9 |
1988 |
142.100 |
5.699.600 |
40,1 |
1989 |
132.400 |
5.344.600 |
40,4 |
1990 |
130.800 |
5.405.600 |
41,3 |
1991 |
144.600 |
6.162.500 |
42,6 |
1992 |
146.500 |
6.437.000 |
43,9 |
1993 |
143.400 |
6.082.700 |
42,4 |
1994 |
166.600 |
7.550.100 |
45,3 |
1995 |
224.800 |
10.711.100 |
47,6 |
Nguồn: Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO, 2012)
Về sản xuất mía, các chính sách về giá mía, chế độ hợp đồng đầu tư đã được hoàn thiện thêm một bước. Đầu những năm 1980 ở thời bao cấp, để tìm cách nâng giá mía cho phù hợp với thị trường, Liên hiệp mía đường II chỉ được phép thử nghiệm gia công mía, trả đường (hoặc trả bằng giá trị tương đương) cho người cung cấp mía. Mỗi tấn mía có 10 CCS được trả 30 kg đường (tương đương 30-35% lượng đường sản xuất được). Biện pháp này đã thu hút được nhiều mía cung cấp cho các nhà máy. Khi được áp dụng cơ chế thị trường với giá thỏa thuận, Liên hiệp mía đường II đã chính thức áp dụng giá một tấn mía 10 CCS tương đương với giá bán buôn của 35-40 kg đường theo từng thời điểm (bằng 40-50% giá trị đường sản xuất được). Biện pháp này đã khuyến khích phát triển sản xuất mía trong vùng nguyên liệu, tăng nguồn cung cấp mía, canh tranh hiệu quả với lò đường thủ công. Mía trồng gần nhà máy, mía có chữ đường (CCS) cao, mía sạch, mía cung cấp đầu vụ, cuối vụ đều có khuyến khích về giá. Mối liên kết chặt chẽ giữa nhà máy đường và người trồng mía trong vùng tiến thêm một bước được cải thiện qua các hợp đồng có đầu tư ứng trước hay hợp đồng thu mua không có đầu tư nhưng có khuyến khích về giá, qua việc tổ chức các tổ điều hành về hợp đồng mía ở cơ sở gồm đại diện nhà máy, người trồng mía và đại diện chính quyền xã, có trả thù lao theo số mía thu mua được. Tổ chức này có tác dụng rất tốt trong tiến trình ký hợp đồng, cung cấp vật tư, kiểm tra trồng mía, chăm sóc và bán mía trả nợ,… từ đó mà tỷ lệ thu nợ qua các hợp đồng đầu tư của các nhà máy trong liên hiệp luôn đạt mức cao từ 95-98%. Hàng năm các nhà máy đường đều trích trước từ giá thành mía để đầu tư sửa chữa, làm mới đường sá, cầu cống, thủy lợi trong vùng chuyên canh. Hai nông trường Cao Cang và Phú Ngọc bắt đầu tiến hành thử nghiệm hình thức khoán sản lượng đến từng hộ nông trường viên khiến năng suất mía và sản lượng đều tăng. Hai nhà máy đường Bình Dương và Hiệp Hòa xây dựng các nông trại mía với diện tích khoảng 100 ha mỗi nông trại để chủ động nguồn mía, phát triển giống mới, tăng sản lượng mía, thực hiện các quy trình thực nghiệm giống, kỹ thuật. Nhà máy đường Hiệp Hòa còn hùn vốn với nông dân thử nghiệm đắp bờ bao, lên líp cải tạo đất ở vùng hoang hóa rìa Đồng Tháp mưới, rửa phèn, mở rộng diện tích trồng mía đạt kết quả cao.
Năm 1986 có thêm Nhà máy đường Lam Sơn với công suất thiết kế 1.500 TMN bắt đầu đi vào hoạt động sản xuất đường thô, nhưng từ 1986 - 1989 luôn thiếu nguyên liệu, chỉ hoạt động đạt 4 – 11% công suất thiết kế. Từ 1989 - 1992 nhà máy liên kết với người trồng mía, tích cực đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu nên đã sản xuất đạt và vượt công suất thiết kế. Năm 1992-1993 nhà máy mở rộng lên 2.000 TMN sản xuất cả đường thô và đường trắng.
Trong thời kỳ này, các nhà máy đường Sông Lam, Vạn Điểm, Việt Trì sản xuất giảm sút, chỉ đạt 36 – 42% công suất thiết kế, tỷ lệ tiêu hao mía/đường tăng cao, hiệu quả tổng thu hồi thấp. Trái lại các nhà máy đường phía Nam như Quảng Ngãi, Bình Dương, Hiệp Hòa lại hoạt động đạt và vượt công suất thiết kế, tỷ lệ tiêu hao mía/đường giảm, hiệu quả tổng thu hồi tăng. Còn hai nhà máy Khánh Hội và Biên Hòa do nhập đường thô và mua đường thủ công về luyện nên sản lượng và tổng thu hồi đều tăng.
2.1.5 Tình hình sản xuất mía đường từ 1996 đến 2000
Ngành mía đường Việt Nam đến năm 1994-1995 vẫn chưa sản xuất được đủ đường cho nhu cầu trong nước, hàng năm Việt Nam vẫn phải xuất một lượng ngoại tệ không nhỏ để nhập khẩu nhiều đường từ nước ngoài. Nhằm định hướng phát triển ngành mía đường Việt Nam sản xuất đủ đường cho nhu cầu phát triển ngày càng tăng cao trong nước và tiến tới xuất khẩu, vào năm 1994, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm đã xây dựng tổng quan mía đường Việt Nam đến 2000-2010 và đề xuất chương trình 1 triệu tấn đường. Tháng 10/1994 Thủ tướng Chính phủ đã thông qua chương trình 1 triệu tấn đường năm 2000. Tháng 5/1995 Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm đã tổ chức hội nghị triển khai chương trình này với kỳ vọng đây là một chương trình lớn, có hiệu quả cao và nhanh chóng trong các chương trình phát triển nông nghiệp của kế hoạch 5 năm 1995-2000 hướng tới mục tiêu sản xuất được 1 triệu tấn đường/năm để đủ ăn, không phải nhập khẩu và chuẩn bị điều kiện để nước ta có thể sản xuất được 3-5 triệu tấn đường/năm, tương đương 1-1,5 tỷ USD/năm vào thập kỷ đầu của thế kỷ 21 và trở thành một nước xuất khẩu đường.
Đến năm 200, sau 5 năm triển khai chương trình 1 triệu tấn đường, ngành mía đường Việt Nam đã thu được những kết quả như sau:
- Về xây dựng vung nguyên liệu tập trung: Năm 1994 toàn quốc có 166.600 ha mía, năng suất 45,3 tấn/ha, sản lượng mía đạt 7.500.000 tấn mía. Đến năm 1999 diện tích mía tăng lên đạt 344.200 ha (tăng 2,06 lần), năng suất mía đạt 51,6 tấn/ha (tăng 13,9%), sản lượng đạt 17.760.000 tấn (tăng 2,35 lần) (Bảng 8 & 9). Vùng nguyên liệu tập trung của các nhà máy có tổng diện tích 202.000 ha, bằng 81% diện tích cần phải quy hoạch, trong đó diện tích trồng giống mới đạt 95.000 ha, chiếm 47,3%. Hệ thống cơ sở hạ tầng (đường sá, cầu cống nội vùng) đạt 50% yêu cầu cho vận chuyển, hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới được 8% diện tích vùng nguyên liệu. Các vùng nguyên liệu tập trung đã cung cấp 8,8 triệu tấn mía cho chế biến đạt 80% công suất thiết kế.
Bảng 9. Tình hình sản xuất mía đường Việt Nam từ năm 1996 đến 2000
Năm |
Diện tích mía (ha) |
Sản lượng mía (tấn) |
Năng suất mía (tấn/ha) |
1996 |
237.000 |
11.371.800 |
48,0 |
1997 |
257.000 |
11.920.900 |
46,4 |
1998 |
283.000 |
13.843.500 |
48,9 |
1999 |
344.200 |
17.760.300 |
51,6 |
2000 |
302.300 |
15.044.300 |
49,8 |
- Về xây dựng và hoạt động của công nghiệp: Đến năm 2000 đã xây dựng được 1 hệ thống các cơ sở chế biến đường công nghiệp trên cả nước với 44 nhà máy, với tổng công suất thiết kế 78.200 TMN. Hình thành nên 3 vùng mía trọng điểm là Thanh Hóa – Nghệ An, Quảng Ngãi, Tây Ninh có công suất các nhà máy chiếm 54% tổng công suất của cả nước (Hình 3).
Hình 3. Phân bố các nhà máy đường ở Việt Nam (2000)
- Nếu phân theo địa phương thì:
+ Miền Bắc và khu 4 cũ: có 15 nhà máy, tổng công suất là 30.700 TMN, chiếm 39,3%.
+ Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên: có 15 nhà máy, tổng công suất là 19.350 TMN, chiếm 24,7%.
+ Miền Nam: có 14 nhà máy, tổng công suất là 28.150 TMN, chiếm 36,0%.
- Nếu phân theo cấp quản lý thì:
+ Trung ương: 15 nhà máy, công suất là 28.750 TMN, chiếm 36,7%.
+ Địa phương: 23 nhà máy, công suất 22.450 TMN, chiếm 28,8%.
+ Liên doanh và 100% vốn nước ngoài: 6 nhà máy, công suất 27.000 TMN, chiếm 34,5%.
- Về đào tạo nhân lực: Chương trình đã góp phần đào tạo nên đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kỹ sư và công nhân 15.000 người. Đi đào tạo nước ngoài 400 cán bộ quản lý, kỹ thuật và công nhân. Tập huấn cho 56.000 lượt công nhân, công nhân nông nghiệp với tổng chi phí 50 tỷ đồng.
- Về chính sách: Người trồng mía được miễn giảm thuế sử dụng đất, ngân hàng cho mỗi hộ vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản. Địa phương và các nhà máy đường có chính sách trợ giá đối với mía trồng mới, đối với diện tích chuyển đổi, diện tích trồng mía lần đầu. Nhà nước cho phép các nhà máy được trích lại 10% giá mía để phát triển vùng nguyên liệu. Đối với các cơ sở chế biến đường thủ công cũng được miễn giảm thuế. Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành nhiều quyết định cho phép giảm lãi suất, tăng thời hạn cho vay, bù chênh lệch tỷ giá, cho vay ưu đãi trả nợ nước ngoài, giảm thuế trong năm 1999, 2000 và cấp đủ vốn lưu động và vốn dự trữ đường cho nhà máy hoạt động. Đến 2000 đã cổ phần hóa 03 đơn vị là Công ty đường Lam Sơn, Công ty đường La Ngà và Phân xưởng bánh kẹo Công ty đường Biên Hòa.
Mặc dù đã đạt được một số kết quả như trên, xong quá trình triển khai thực hiện chương trình mía đường trong giai đoạn này cũng còn một số khó khăn, khuyết điểm và tồn tại như sau:
- Tốc độ xây dựng vùng nguyên liệu không theo kịp tốc độ xây dựng nhà máy. Nguyên nhân là do trong 3 năm từ 1996-1998, vốn vay cho trồng mía chỉ đạt 25-30% nhu cầu, từ 1999-2000 mức này mới được tăng lên 47% nhu cầu (568 tỷ đồng). Ngoài ra, do việc trồng mía nguyên liệu phân công cho các tỉnh chịu trách nhiệm, nhưng trong thời gian đầu Bộ Nông nghiệp và PTNT và chính quyền các tỉnh còn xem nhẹ công tác chỉ đạo xây dựng vùng nguyên liệu nên kết quả đạt được không cao.
- Năng suất và chất lượng mía nguyên liệu còn thấp: Nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta quá chú trọng việc nhập khẩu tới 11.000 tấn mía giống của khoảng 20 giống có nguồn gốc Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp,... nhưng lại quá xem nhẹ việc cấp vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu trong nước, chỉ bằng 0,03% giá trị mua mía. Các giống mía nhập nội từ nước ngoài có thể là giống tốt ở nước họ xong khi mang sang trồng ở Việt Nam thì chưa chắc đã là giống tốt, bởi chúng được lai tạo, tuyển chọn trong điều kiện của nước khác, với phổ sâu, bệnh và khí hậu, thời tiết hoàn toàn khác với chúng ta, chưa kể ngay ở trong nước ta cũng có sự khác nhau rõ rệt giữa miền Bắc và miền Nam, giữa vùng cao và vùng thấp, vùng ven biển,... do vậy sau một thời gian ồ ạt nhập và trồng các giống nhập khẩu, chỉ có một số ít giống là còn tồn tại và phát triển ở khu vực miền Bắc và một phần ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, còn lại đa số đều bị đào thải do bị nhiễm sâu bệnh, trổ cờ, tái sinh gốc kém, chịu hạn, chịu úng kém,... Trong khi đó do được đầu tư ít và ít được quan tâm nên công tác lai tạo và tuyển chọn giống trong nước không theo kịp nhu cầu về giống mới thay thế cho các giống cũ, dẫn đến năng suất và chất lượng mía đều ít được cải thiện và còn ở mức khá thấp so với khu vực và trên thế giới. Ngoài ra còn do một số nguyên nhân khác như tỷ lệ diện tích mía có tưới chỉ đạt 8%, mức đầu tư phân bón chỉ đạt 50-60% theo yêu cầu của quy trình thâm canh và hầu hết đất trồng mía đều là đất xấu.
- Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng đường sá, cầu cống mới chỉ đạt 15-20% mức yêu cầu, hạn chế việc mở rộng vùng nguyên liệu cũng như ảnh hưởng đến công tác đầu tư, thu mua và thời gian vận chuyển mía về nhà máy.
- Việc phối hợp giữa nhà máy và nông dân chưa tốt cả về cơ chế và lợi ích.
- Có 03 nhà máy đường Linh Cảm, Quảng Bình, KCP Huế đặt nhà máy không đúng chỗ, không đủ điều kiện để xây dựng vùng nguyên liệu nên phải di đời đi chỗ khác.
- Việc quản lý đầu tư và xây dựng nhà máy còn nhiều sai sót như khi lập dự án chưa tính đúng, tính đủ các điều kiện và yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện nên hầu hết các dự án đều có sự thay đổi tổng mức đầu tư. Một số đơn vị còn vi phạm quy chế đấu thầu do chủ đầu tư muốn xây dựng nhanh.
- Việc quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh nói chung chưa đáp ứng được nhiệm vụ, nhất là các nhà máy mới xây dựng.
- Về tài chính: Theo yêu cầu của Đảng và nhà nước trong thời kỳ 1996 - 2000 thì cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất nói chung, mía đường nói riêng phải đạt mức: Vốn ngân sách 21%, tín dụng Nhà nước 7%, doanh nghiệp đầu tư 24%, đầu tư của dân 17%, đầu tư trực tiếp của nước ngoài 31%. Tuy nhiên thực tế chương trình đã thực hiện là: Vốn ngân sách 0%, tín dụng thương mại 52,3%, doanh nghiệp không đáng kể vì là doanh nghiệp mới, không có dân đầu tư, còn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là 47,7%. Như vậy toàn bộ vốn đầu tư xây dựng nàh máy đường là vốn vay, thời hạn phải trả nợ nước ngoài ngắn (7 năm) nên khấu hao và lãi vay chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành nên giá thành sản xuất cao. Đến 31/3/2000, lãi vay và phí đến hạn phải trả của các dự án trung ương và địa phương là 506 tỷ đồng, gần bằng số nợ gốc phải trả là 697 tỷ đồng. Về vốn sản xuất (vốn lưu động), theo chế độ thì ngân sách cấp 30%, nhưng không được cấp, các nhà máy phải vay với lãi suất cao, nhưng cũng được 47,4% mức vốn cần thiết. Việc thanh quyết toán các dự án chậm.
- Việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện chưa đồng bộ giữa Bộ, ngành trung ương và địa phương. Trong chỉ đạo còn xem nhẹ phát triển vùng nguyên liệu, từ Bộ cho đến địa phương và nhà máy.
Tổng kết 5 năm thực hiện chương trình mía đường (năm 2000), Bộ Nông nghiệp và PTNT đã kết luận như sau:
- Chương trình mía đường đã hoàn thành đúng thời hạn và mục tiêu của Đảng và Nhà nước, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, không phải nhập khẩu đường.
- Chương trình mía đường là chương trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ 8 của Đảng. Khai thác được nội lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Đưa công nghiệp về nông thôn, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo đói một cách cụ thể, thiết thực. Đã hình thành một ngành công nghiệp gắn bó chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, xây dựng mối liên minh công nông bền vững giữa công nhân và nông dân, cũng cố quan hệ sản xuất mới ở nông thôn.
- Chương trình mía đường với phạm vi cả nước đã góp phần thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa hàng trăm ngàn ha đất đồi, đất chua phèn vào sử dụng có hiệu quả, hình thành các vùng sản xuất tập trung, bố trí lại lao động nông thôn, giải quyết được công ăn việc làm cho trên 700.000 lao động công nghiệp, nông nghiệp và hàng vạn người làm dịch vụ, ổn định đời sống cho khoảng 2 triệu người. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Tổ chức lại sản xuất nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. Hình thành các thị trấn, thị tứ, các tụ điểm công nghiệp và dịch vụ, tạo điều kiện phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, hạ tầng cơ sở nông thôn, xây dựng nông thôn mới, góp phần ổn định chính trị xã hội.
- Đã nhanh chóng xây xựng được một ngành công nghiệp mía đường, với công nghệ và thiết bị đồng bộ, thích ứng với sự phát triển trong nhiều năm tới, phù hợp với quy mô vùng nguyên liệu, trình độ quản lý, khả năng tài chính. Trong thời gian ngắn đã khai thác được nhiều nguồn vốn, đặc biệt là vốn nước ngoài (chiếm 67%) và vốn của dân. Phối hợp được công nghệ hiện đại, trung bình tiên tiến và thủ công để tạo nên đa dạng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sản xuất công nghiệp. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 1996 - 2000, hàng năm doanh số từ đường và phụ phẩm khoảng 5.000 tỷ đồng, bước đầu đã nộp cho ngân sách Nhà nước là 486,5 tỷ đồng. Sản xuất công nghiệp đã giảm thất thoát so với ép thu công và không phải nhập khẩu đường, tiết kiệm được một lượng ngoại tệ lớn (từ 150-300 triệu USD mỗi năm), hình thành và tạo việc làm cho lực lượng thiết kế, xây dựng, chế tạo và sửa chữa cơ khí,... tiến dần đến tự lực thiết kế, chế tạo trong nước. Đặc biệt, sản xuất 1 triệu tấn đượng làm ổn định giá đường trong nước, mang lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng và những ngành sản xuất có dùng đường.
- Ngành mía đường tác động lên nhiều lĩnh vực như: nông nghiệp, công nghiệp, thương ngiệp, cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải, giáo dục đào tạo,... nên chương trình mía đường là động lực có tác động đến các ngành khác phát triển và là kinh nghiệm để triển khai các chương trình khác.
- Chương trình mía đường đã tạo dựng được một đội ngũ cán bộ, công nhân công nghiệp, việc tuyển chọn hàng vạn cán bộ, công nhân tại địa phương, đặc biệt vùng sâu, vùng xa để đào tạo, bồi dưỡng, không những đáp ứng nhu cầu cho ngành mía đường mà còn là nguồn cán bộ, công nhân cho thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho các địa phương. Mở ra phương thức mới về đào tạo cán bộ cho vùng sâu, vùng xa.
- Tuy nhiên, chương trình chưa đồng bộ hóa được nguyên liệu, chế biến, tiêu thụ. Ban đầu còn coi nhẹ xây dựng vùng nguyên liệu, tiến độ xây dựng vùng nguyên liệu chưa kịp với tiến độ xây dựng nhà máy, công tác quy hoạch vùng nguyên liệu ở một số địa phương không sát với thực tế, quy trình thâm canh mía còn bị coi nhẹ, đặc biệt là về thủy lợi, chậm tạo ra bộ giống tốt cho từng vùng sinh thái. Trong tiêu thụ, công tác dự báo chưa sát, nhất là thị trường đường thế giới, tổ chức hệ thống tiêu thụ và ngăn chặn đường nhập lậu chưa tốt. Chưa có chính sách toàn diện về nguyên liệu – chế biến – tiêu thụ. Công tác tổ chức điều hành chưa mạnh và kịp thời, chưa ngang tầm với quy mô của chương trình. Chính sách tài chính chậm được triển khai và chưa giải quyết được triệt để.
2.1.6 Tình hình sản xuất mía đường từ 2001 đến nay
Từ năm 2001 trở lại đây, diện tích trồng mía trên cả nước giảm so với năm 2000 do không cạnh tranh nổi với một số cây trồng có thu nhập cao hơn khiến tình trạng thiếu nguyên liệu thường xuyên xảy ra.
Bảng 10. Tình hình sản xuất mía đường Việt Nam từ năm 2001 đến 2012
Năm |
Diện tích mía (ha) |
Sản lượng mía (tấn) |
Năng suất mía (tấn/ha) |
2001 |
290.700 |
14.656.900 |
50,4 |
2002 |
320.000 |
17.120.000 |
53,5 |
2003 |
313.200 |
16.854.700 |
53,8 |
2004 |
286.100 |
15.649.300 |
54,7 |
2005 |
266.300 |
14.948.700 |
56,1 |
2006 |
288.100 |
16.719.500 |
58,0 |
2007 |
293.400 |
17.396.700 |
59,3 |
2008 |
270.700 |
16.145.500 |
59,6 |
2009 |
265.600 |
15.608.300 |
58,8 |
2010 |
269.100 |
16.161.700 |
60,1 |
2011 |
282.254 |
17.539.572 |
62,1 |
2012 |
297.500 |
19.040.799 |
64,0 |
Nguồn: Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO, 2012)
Ngày 15/02/2007 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 26/2007/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch phát triển mía đường đến năm 2010 và định hướng đến 2020 với các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2010 là: Diện tích mía 300.000 ha, năng suất mía bình quân 65 tấn/ha, chữ đường bình quân 11 CCS, sản lượng mía 19,5 triệu tấn và sản lượng đường là 1,5 triệu tấn (trong đó đường công nghiệp là 1,4 triệu tấn).
Tuy nhiên, theo số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến cuối năm 2010, diện tích mía cả nước chỉ đạt 266.300 ha, năng suất mía bình quân đạt 59,9 tấn/ha, chữ đường bình quân ước đạt khoảng 10 CCS, sản lượng mía cả nước chỉ đạt 15,947 triệu tấn, sản lượng đường ước đạt gần 1 triệu tấn.
Bảng 11. Tổng hợp so sánh một số chỉ tiêu chủ yếu đạt được năm 2010
Chỉ tiêu |
Đơn vị tính |
Theo Quyết định 26/2007/QĐ-TTg |
Đạt được năm 2010 |
So sánh (%) |
Diện tích mía |
ha |
300.000 |
266.300 |
-11,2 |
Năng suất mía bình quân |
tấn/ha |
65 |
59,9 |
-7,8 |
Chữ đường bình quân |
CCS |
11 |
10 |
-9,1 |
Sản lượng mía |
triệu tấn |
19,5 |
15,947 |
-18,2 |
Tổng công suất NM |
tấn mía/ngày |
105.000 |
105.750 |
0,7 |
Sản lượng đường |
tấn |
1.500.000 |
1.000.000 |
-33,3 |
Như vậy, tính đến năm 2010, ngoài 1 chỉ tiêu duy nhất về tổng công suất chế biến của các nhà máy đường, tất các các chỉ tiêu chủ yếu còn lại về diện tích mía, năng suất bình quân, chữ đường bình quân, sản lượng mía và sản lượng đường đều không đạt mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra trong Quyết định nêu trên (Bảng 1). Trong số các chỉ tiêu không đạt mục tiêu của Quyết định số 26/2007/QĐ-TTg, chỉ tiêu về năng suất mía tiệm cận gần nhất với mục tiêu đã đề ra (chỉ thấp hơn 7,8%), các chỉ tiêu còn lại đều đạt quá thấp và có liên quan nhiều đến chỉ tiêu diện tích mía.
Trong giai đoạn từ 2008-2012, do giá đường, giá mía khá cao, các công ty mía đường và người trồng mía có lãi nên diện tích mía đã được mở rộng và ổn định, việc đầu tư thâm canh được quan tâm nên năng suất, sản lượng mía liên tục tăng. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và PTNT, vụ 2012-2013, diện tích mía cả nước là 298.200 ha, tăng hơn vụ trước 15.000 ha, năng suất mía bình quân cả nước đạt 63,9 tấn/ha tăng so với vụ trước 2,2 tấn/ha, sản lượng mía cả nước được 19,04 triệu tấn, tăng so với vụ trước 1,5 triệu tấn. Diện tích vùng nguyên liệu tập trung (gồm 25 tỉnh có nhà máy đường) là 285.100 ha, cao hơn vụ trước 14.139 ha và được phân chia khá đồng đều giữa 3 miền; hầu hết mía ở các tỉnh phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và Đông Nam bộ có ký hợp đồng đầu tư bao tiêu với nhà máy, vùng ĐBSCL chủ yếu hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Tổng diện tích các nhà máy có ký hợp đồng đầu tư và bao tiêu sản phẩm là là 265.100 ha chiếm 93,0% diện tích vùng nguyên liệu tập trung, tăng hơn vụ trước 30.857 ha. Về chất lượng, do chăm sóc tốt, chất lượng mía vụ 2012-2013 tốt hơn vụ trước, chữ đường bình quân của mía đưa vào nhà máy chế biến khoảng 9,8 CCS, cao hơn vụ trước 0,2 CCS.
Mặc dù vậy, kề từ vụ mía 2013-2014, sản xuất mía đường trong nước lại bước vào một chu kỳ khó khăn mới mà nguyên nhân chính là do giá mía đường thế giới xuống thấp đến mức kỷ lục, khiến cho giá đường và giá mía trong nước giảm sâu so với các vụ trước. Ngoài ra, do tác động của tình hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn như: tốc độ tăng trưởng GDP thấp, lãi suất vốn vay còn ở mức cao, sức tiêu thụ nội địa giảm, nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất đang thực hiện việc tái cơ cấu sản xuất,… nên ngành mía đường đã khó khăn lại càng thêm khó khăn, ảnh hướng đến đời sống của hàng vạn lao động và tình hình phát triển của nhiều doanh nghiệp, cũng như nguồn thu ngân sách của nhiều địa phương trên toàn quốc. Tình hình khó khăn này được dự báo sẽ kéo dài 2-3 năm nữa. Đang lưu ý là nguy cơ vùng mía nguyên liệu lớn nhất nước ở đồng bằng sông Cửu Long bị thu hẹp, thậm chí xóa xổ như dự báo của Công ty tư vấn LMC của Anh năm 2011 ngày càng hiện rõ, do sức cạnh tranh của cây mía trong vùng này ngày càng xuống thấp.
2.2 Công tác nghiên cứu mía ở Việt Nam
2.2.1 Công tác nghiên cứu mía trước 1975
Do những điều kiện lịch sử của đất nước, công tác nghiên cứu mía ở Việt Nam có thể nói cho đến thời điểm này vẫn còn là hết sức non trẻ và mới mẻ.
Ở miển Bắc, chỉ từ sau hòa bình lập lại năm 1954, khi Học Viện Nông Lâm (nay là là Học Viện Nông nghiệp Việt Nam) ra đời mới hình thành Tổ nghiên cứu cây mía với số lượng vài ba cán bộ (Hoàng Văn Đức, 1982). Đến năm 1968, Viện cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc được thành lập thì Bộ môn nghiên cứu cây mía trực thuộc Viện ra đời. Bộ môn đặt tại Phú Xuyên, Hà Tây và đến năm 1973 công tác nghiên cứu được mở rộng tới vùng mía đồi Sao Vàng - Thanh Hóa. Các đề tài về cây mía nói chung trong suốt thời gian từ 1956 đến 1975 là các đề tài mang tính thăm dò và ứng dụng, thực nghiệm.
Theo Hoàng Văn Đức (1982), các đề tài giống mía ở thời kỳ 1956 tới những năm đầu thập kỷ 1960 tập trung chủ yếu vào các nội dung:
- Tìm hiểu giá trị canh tác và nguyên nhân suy thoái nếu cò của những giống mía nhập nội từ lâu hiện còn trồng trong nhân dân như POJ2878, POJ3016 và một số dòng Co của Ấn Độ.
- Đánh giá những giống mía mới nhập nội: NCo310, F.134,...
- Qua thử nghiệm trên đồng ruộng, tìm cho mỗi vùng mía một giống thích hợp với môi trường và điều kiện sản xuất ở địa phương.
- Điều tra cơ bản, thu thập các giống mía địa phươg (mía ép và mía ăn tươi) và các dòng dã sinh làm thực liệu cho việc lai tạo giông mía mới sau này.
Từ năm 1964, sản xuất mía ở đồng bằng Bắc Bộ đượ bổ sung giốg mía F134. Nhờ những đặc điểm tốt về sinh học và năng suất nông nghiệp, giống mía này đã nhanh chóng được tiếp nhận và loại dần các giống mía POJ2878 và POJ3016. Năm 1972 giống mía Việt Đường 54-134 được kết luận phổ biến tại vùng mía Vạn Điểm, Hà Tây (Trần Văn Sỏi, 1972).
Từ năm 1968 đến 1975, nội dung nghiên cứu của đề tài giống mía là:
- Nghiên cứu tập đoàn giống mía (trên 100 mẫu giống nhập nội).
- So sánh tuyển chọn giống mía sản xuất cho vùng đồng bằng.
- So sánh tuyển chọn giống mía tốt cho vùng mía đồi.
Ở miền Nam, trước năm 1975, có một số trại và trung tâm giống mía như: Thu Phổ (Quảng Ngãi), Hoài Phong (Phú Yên), Nha Hố (Ninh Thuận) và Dĩ An (Sông Bé). Các trại và trung tâm này cũng đã nghiên cứu và phổ biến vào sản xuất một số giống mía nhập nội như: NCo310, F146, Co715,... Trung tâm Dĩ An đã lai tạo được một số dòng lai VN65, VN66, VN70, VN72 (do ông Trần Văn Lân thực hiện).
2.2.2 Công tác nghiên cứu mía từ sau 1975 tới nay
Sau ngày miền Nam dược hoàn toàn giải phóng (1975), tháng 8 năm 1977, Trạm Nghiên cứu mía Bến Cát được thành lập tại xã Phú An, huyện Bến Cát, tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Dương) và năm 1982 được chuyển thành Viện Nghiên cứu Mía đường. Các trại và trung tâm giống cũ ở miền Nam không còn nữa. Viện Nghiên cứu Mía đường được giao nhiệm vụ nghiên cứu phục vụ sản xuất của ngành mía đường cả nước.
Giai đoạn từ 1977-1985, cùng với công tác xây dựng cơ bản, đào tạo đội ngũ cán bộ..., công tác nghiên cún cây mía cũng đã được đẩy mạnh nhằm đáp ứng những yêu cầu trước mắt và lâu dài sau này của sản xuất. Bên cạnh các đề tài nghiên cứu về kỹ thuật canh tác, bảo vệ thực vật,... đề tài giống mía được xem là đề tài trung tâm, gồm các nội dung:
- Sưu tập, nhập nội giống mới, xây dựng tập đoàn mía tư liệu.
- Nghiên cứu tuyển chọn giống mía sản xuất từ nguồn hiện có (giống trong nước và nhập nội).
- Ứng dụng lai tạo giống mía mới bằng phương pháp lai hữu tính nhằm tìm giống mía tốt cho sản xuất và tạo vật liệu mới bổ sung cho tập đoàn giống mía.
Giai đoạn từ năm 1985-1995 có 2 đề tài nghiên cứu về mía thuộc Chương trình cấp Nhà nước 18B đã được triển khai thực hiện tại Liên Hiệp Mía Đường II (nay là Tổng Công ty Mía đường II) và thu được một số kết quả nghiên cứu.
- Đề tài 18B.01-01 về giống mía (chủ nhiệm Nguyễn Huy Ước) đã kết luận được 5 giống mía mới bổ sung vào sản xuất là: F156, My5514, F154, Ja60-5 và C819-67; lai tạo và tuyển chọn được trên 25 dòng lai mới tốt, trong đó có các dòng lai ưu tú sau này được công nhận giống như VN84-4137, VN84-422, VN85-1427,...; xây dựng được một tập đoàn tư liệu với trên 400 mẫu giống, trong đó có nhiều mẫu giống quí hiếm.
- Đề tài 18B.01-03 về kỹ thuật thâm canh mía (chủ nhiệm Thái Nghĩa) đã nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện cho quy trình trồng mía của Bộ Nông nghiệp ban hành năm 1984; kết luận được một số tiến bộ kỹ thuật về bón bùn lọc cho mía, tủ rác lá mía để giữ ẩm, diệt cỏ, tăng chất hữu cơ và hoạt động vi sinh vật đất, tăng được năng suất mía và xác định được tuần tự thu hoạch mía.
Ngoài ra, một số nội dung khác cũng đã được nghiên cứu như:
- Nghiên cứu giống mía cho vùng đất thấp (đất phèn)
- Nghiên cứu tạo và nhân giông bằng phương pháp cấy mô đơn bội.
Giai đoạn từ 1995 đến nay được đánh dấu mở đầu bằng việc Chính phủ thông qua việc thực hiện Chương trình 1 triệu tấn đường năm 1995, nhằm thúc đẩy ngành mía đường Việt Nam phát triển để có thể sản xuất đủ đường cho nhu cầu tiêu dùng ngàng càng tăng cao ở trong nước và tiến tới xuất khẩu. Sau khi có Chương trình 1 triệu tấn đường ra đời, sản xuất mía đường Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả về diện tích trồng mía, số lượng nhà máy đường và công suất chế biến. Diện tích trồng mía trên toàn quốc đã được mở rộng từ 150.000 ha vào năm 1994 lên 305.800 ha vào năm 1999, số lượng nhà máy đường mía đã tăng từ 12 nhà máy vào năm 1994 lên 44 nhà máy vào năm 1999, còn tổng công suất chế biến mía theo thiết kế đã tăng từ 12.200 tấn mía/ngày năm 1994 lên đạt 78.200 tấn mía/ngày vào năm 1999. Có thể nói trong 5 năm đầu sau khi có Chương trình 1 triệu tấn đường ra đời, ngành mía đường là một trong những ngành có tốc độ phát triển nóng nhất, điều đó một mặt đã đem lại một số kết quả tốt đẹp hơn cho ngành mía đường, nhưng đồng thời cũng đã kéo theo rất nhiều hệ lụy xấu còn ảnh hưởng cho đến tận hôm nay, đặc biệt là về công tác nghiên cứu mía. Sau khi có Chương trình 1 triệu tấn đường ra đời, do yêu cầu cấp bách của sản xuất, hàng loạt giống mía đã được nhập nội ồ ạt với khối lượng lớn từ Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan,... bằng mọi con đường, cả chính thức và không chính thức, sau đó được nhân nhanh, đưa trực tiếp vào sản xuất. Lúc này công tác nghiên cứu mía trong nước gần như bị lãng quên, một số kết quả nghiên cứu về giống và tiến bộ kỹ thuật thu được ở giai đoạn 1985-1995 trước đó chuẩn bị được khu vực hóa, kết luận và công nhận chính thức để đưa vào sản xuất đại trà, nhất là các dòng mía lai VN đã bị ảnh hưởng đáng kể bởi xu hướng "sùng ngoại" đang rất phổ biến vào thời điểm đó. Các nghiên cứu chính về mía trong giai đoạn đầu này chủ yếu tập trung vào việc khảo nghiệm và nhân nhanh các giống mía nhập nội, chủ yếu là từ Đài Loan, Trung Quốc và Thái Lan. Những nghiên cứu khác về kỹ thuật canh tác và bảo vệ thực vật ít được quan tâm thực hiện và nếu có chỉ được thực hiện trong khuôn khổ các đề tài nghiên cứu thường xuyên, đề tài cấp cơ sở của Viện Nghiên cứu Mía đường. Tình trạng này kéo dài cho đến tận thời gian gần đây, khi tất cả 4 nhà gồm: nhà nông - nhà nước - nhà khoa học và nhà doanh nghiệp đều cùng nhận thức được rằng chỉ khi nào chúng ta có bộ giống mía riêng của Việt Nam, do Việt Nam lai tạo, phù hợp với từng vùng đất thì ngành sản xuất mía đường mới hội đủ điều kiện đi vào thế phát triển ổn định. Nhờ đó, công tác lai tạo và phát triển các dòng, giống mía lai Việt Nam gần đây mới thực sự được quan tâm và thúc đẩy phát triển mạnh.
Trong giai đoạn từ 1986-2013 đã có 54 giống mía mới được công nhận sản xuất thử. Đặc biệt trong đó có 16 giống (chiếm 29,6%) đã được công nhận chính thức và cho phép phổ biến rộng rãi vào sản xuất (Bảng 12). Trong số 54 giống mía mới được công nhận trong giai đoạn này, có tới 47 giống nhập nội, chỉ có 7 giống VN (chiếm 12,96% số giống) là do Việt Nam tự lai tạo. Như vậy, theo quy luật phát triển chung về giống mía ở một quốc gia là từ chỗ ban đầu sử dụng chủ yếu các giống mía dại và giống mía địa phương, chuyển dần sang sử dụng chủ yếu các giống mía nhập nội, rồi sử dụng hỗn hợp cả giống nhập nội và giống lai tạo trong nước và cuối cùng là hoàn toàn sử dụng các giống mía lai tạo trong nước, thì ngành mía đường Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn giữa của quá trình và trình độ phát triển.
Bảng 12. Danh sách giống mía được công nhận sản xuất thử và chính thức ở Việt Nam từ năm 1986 – 2013
STT |
Tên giống |
Năm công nhận SX thử |
Năm công nhận giống |
Ghi chú |
1 |
B85-764 |
2008 |
|
Miền Trung và Tây Nguyên |
2 |
C111-79 |
2006 |
|
Tây Nguyên |
3 |
C1324-74 |
2006 |
|
Tây Nguyên |
4 |
C85-212 |
2006 |
|
Nam Trung Bộ, Đông Nam bộ và Tây Nguyên |
5 |
C85-284 |
2006 |
|
Tây Nguyên |
6 |
C85-391 |
2006 |
|
Tây Nguyên |
7 |
C86-456 |
2006 |
|
Tây Nam bộ |
8 |
Co6806 |
1994 |
|
Đông Nam Bộ |
9 |
CP34-79 |
1995 |
|
Miền Bắc |
10 |
CR74-250 |
2006 |
|
Đông Nam bộ |
11 |
DLM24 |
2002 |
|
MiềnNam |
12 |
F154 |
1989 |
|
Đông Nam Bộ |
13 |
F156 |
1991 |
1998 |
Đông Nam Bộ |
14 |
K83-29 |
2013 |
|
Miền Trung và Tây Nguyên |
15 |
K88-65 |
2008 |
|
Miền Trung và Tây Nguyên |
16 |
K84-200 |
|
1998 |
Tây Nam bộ và Đông Nam bộ |
17 |
K88-200 |
2011, 2013 |
|
Đông Nam bộ, Nam Trung bộ và Tây Nam bộ |
18 |
K88-92 |
2008, 2011, 2013 |
|
Nam Trung bộ, Tây Nguyên và Tây Nam bộ |
19 |
K93-219 |
2011 |
|
Đông Nam bộ |
20 |
K95-156 |
2011 |
|
Tây Nam bộ, Đông Nam bộ, |
21 |
K95-84 |
2011 |
|
Đông Nam bộ và Nam Trung bộ |
22 |
KK2 |
2011 |
|
Bắc Trung bộ và Trung Trung bộ |
23 |
KU00-1-61 |
2011 |
|
Tây Nam bộ |
24 |
KU60-1 |
2011 |
|
Tây Nam bộ |
25 |
LK92-11 |
2011 |
|
Đông Nam bộ và Tây Nguyên |
26 |
Mex105 |
2008 |
|
Miền Trung và Tây Nguyên |
27 |
My55-14 |
1990 |
1992 |
Đông Nam Bộ |
28 |
QĐ11 |
|
1998 |
Trung Trung Bộ |
29 |
QĐ15 |
2004 |
|
Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ |
30 |
R570 |
|
1998 |
Đông Nam bộ |
31 |
R579 |
|
1998 |
Đông Nam bộ |
32 |
ROC1 |
1995 |
1998 |
Miền Bắc và Đông Nam bộ |
33 |
ROC9 |
2002 |
|
MiềnNam |
34 |
ROC10 |
1995 |
1998 |
Miền Bắc và Đông Nam bộ |
35 |
ROC15 |
2006 |
|
Miền núi và Trung du Bắc bộ |
36 |
ROC16 |
1997 |
1998 |
Miền Bắc, miền Trung và Đông Nam bộ |
37 |
ROC22 |
2006 |
|
Trung Trung bộ |
38 |
ROC23 (HB1) |
2006 |
2013 |
Các tỉnh phía Bắc |
39 |
ROC26 |
2006 |
2013 |
Các tỉnh phía Bắc |
40 |
ROC27 |
2008 |
|
Miền Trung và Tây Nguyên |
41 |
Suphanburi 7 |
2011 |
|
Tây Nguyên, Tây Nam bộ và Nam Trung bộ |
42 |
VĐ63-237 |
1995 |
1998 |
Miền Bắc và Đông Nam bộ |
43 |
VĐ79-177 |
|
1998 |
MiềnNam |
44 |
VĐ81-3254 |
1995 |
|
Miền Bắc |
45 |
VĐ85-192 |
2006 |
|
Bắc Trung bộ |
46 |
VĐ86-368 |
2004 |
|
Tây Nam bộ |
47 |
VĐ93-159 |
2004, 2008 |
|
Các tỉnh phía Bắc, Miền Trung và Tây Nguyên |
48 |
VN72-77 |
1995 |
|
Đông Nam Bộ |
49 |
VN84-196 |
1995 |
|
Đông Nam Bộ |
50 |
VN84-2611 |
1995 |
|
Đông Nam Bộ |
51 |
VN84-4137 |
1994 |
1998 |
Miền Nam |
52 |
VN84-422 |
2000 |
2006 |
Trung Trung bộ và Nam Trung bộ |
53 |
VN85-1427 |
2000 |
2006 |
Trung Trung bộ và Nam Trung bộ |
54 |
VN85-1859 |
2000 |
|
MiềnNam |
Ngoài giống mía, trong thời gian gần đây, một số tiến bộ kỹ thuật cũng đã được công nhận và phổ biến vào sản xuất (Bảng 13), góp phần đưa năng suất mía ở Việt Nam tăng từ mức 45 tấn/ha vào năm 1994 lên đạt gần 65 tấn/ha vào năm 2013.
Bảng 13. Các tiến bộ kỹ thuật được công nhận năm 2010-2011
TT |
Tên tiến bộ kỹ thuật |
Năm công nhận |
Vùng áp dụng |
1 |
Quy trình sản xuất giống mía tại vùng Tây Nguyên |
2010 |
Tây Nguyên |
2 |
Quy trình sản xuất giống mía tại vùng Nam Trung bộ |
2010 |
Nam Trung bộ |
3 |
Quy trình sản xuất giống mía tại vùng Đông Nam bộ |
2010 |
Đông Nam bộ |
4 |
Quy trình sản xuất giống mía tại vùng Tây Nam bộ |
2010 |
Tây Nam bộ |
5 |
Biện pháp sử dụng thuốc trừ cỏ và phòng trừ sâu hại cho cây mía ở các tỉnh thuộc khu vực Đông Nam bộ |
2011 |
Đông Nam bộ |
6 |
Biện pháp bón phân bã bùn dạng hoai mục và phun chế phẩm phân bón lá K-Humate cho cây mía tại miền Trung |
2011 |
Nam Trung bộ |
7 |
Sử dụng thuốc trừ cỏ và phun phân qua lá cho cây mía ở Tây Nguyên |
2011 |
Tây Nguyên |
Tập đoàn quỹ gen giống cây trồng nói chung, giống mía nói riêng là nguồn vật liệu khởi đầu rất quan trọng trong công tác chọn tạo giống mía cho sản xuất. Đối với các nước trồng mía trên thế giới, việc xây dựng tập đoàn quỹ gen giống mía rất được quan tâm vì đó là nguồn vật liệu khởi đầu quan trọng phục vụ cho công tác nghiên cứu, chọn tạo giống mía mới ở mỗi nước. So với các nước khác, tập đoàn quỹ gen giống mía của ta số lượng chưa nhiều. Tính đến năm 2011, sau gần 40 năm sưu tập chúng ta mới có 917 mẫu giống mía (Bảng 14). Tuy nhiên các mẫu giống mía ở nước ta lại tương đối đa dạng, có nguồn gốc từ nhiều nước khác nhau trên thế giới, trong đó có một số dòng thương phẩm tốt của các nước như Cuba, Ấn Độ, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Úc,... Đặc biệt là trong tập đoàn quỹ gen giống mía của ta có rất nhiều mẫu gen của các loài mía hoang dại được thu thập từ nhiều vùng núi, rừng, vùng nguyên sản khắp nơi trên cả nước trong 5 năm gân đây. Đây là các mẫu gen quý hiếm và rất cần thiết cho công tác tạo giống mía mới có ưu thế lai cao như các loài Saccharum officinarum, Saccharum spontaneum, Saccharum sinense, Erianthus arundinaceus,... Hiện nay, vườn tập đoàn quỹ gen giống mía Quốc gia này đang được bảo tồn, lưu giữ duy nhất tại Viện Nghiên cứu Mía đường. Trong thời gian tới, với nhu cầu của sản xuất về giống mía mới không ngừng tăng cao, sự quan tâm, đầu tư cho công tác nghiên cứu, lai tạo và phát triển giống mía nội ngày càng lớn thì vai trò của tập đoàn quỹ gen giống mía sẽ ngày càng được coi trọng. Do đó chắc chắn nó sẽ tiếp tục được bổ sung, đánh giá, khai thác và phát huy hiệu quả hơn.
Bảng 14. Diễn biến số lượng mẫu giống mía được sưu tập và bảo tồn tại Viện Nghiên cứu Mía đường từ 2006-2011
TT |
Loài lưu giữ |
Đơn vị |
Số lượng lưu giữ |
|||
2006 |
2008 |
2010 |
2011 |
|||
1 |
Mía quý (Saccharum officinarum) |
Mẫu |
10 |
10 |
24 |
24 |
2 |
Mía hoang dại (Saccharum spontaneum) |
" |
2 |
2 |
12 |
12 |
3 |
Mía gie (Saccharum sinense) |
" |
3 |
3 |
3 |
3 |
4 |
Erianthus arundinaceus |
" |
0 |
0 |
34 |
34 |
5 |
Miscanthus sp |
" |
0 |
0 |
15 |
15 |
6 |
Saccharum Robustum |
" |
0 |
0 |
2 |
2 |
7 |
Sclerostachya |
" |
0 |
0 |
1 |
1 |
8 |
Balida |
" |
0 |
0 |
3 |
3 |
9 |
Dòng giống lai tạo trong nước |
" |
185 |
185 |
185 |
185 |
10 |
Dòng giống nhập nội |
" |
470 |
548 |
587 |
587 |
11 |
Thu thập không rõ nguồn gốc |
" |
80 |
63 |
51 |
71 |
|
Tổng số |
|
750 |
821 |
917 |
917 |
Công tác lai tạo giống mía mới ở Việt Nam từ sau 1975 tới nay chủ yếu được giao cho Viện Nghiên cứu Mía đường thực hiện. Trước 2007 Viện chỉ thực hiện việc lai tạo mía duy nhất tại trụ sở Viện ở xã Phú An, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Từ cuối năm 2007 đến nay, ngoài địa điểm trên, Viện còn tiến hành lai tạo tại xã Đạ Ròn, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Trong tương lai, nơi đây sẽ trở thành địa điểm lai tạo giống mía chính của Viện nói riêng, của Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ 1988 đến 2007, bình quân hàng năm Viện chỉ thực hiện được 12 tổ hợp lai và thu được khoảng 500 cây con lai. Nhận thức được sự yếu kém và tụt hậu khá xa của mình trong công tác lai tạo giống mía so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về yêu cầu vĩ độ và cao độ nơi thực hiện các tổ hợp lai, kết hợp với việc tư vấn, tham khảo kinh nghiệm và kết quả lai tạo giống mía mới của các nước sản xuất mía đường hàng đầu trên thế giới như Thái Lan, Ấn Độ, Cuba, Úc,... kể từ cuối năm 2007 Viện đã có một quyết định đột phá là chuyển tập đoàn giống bố mẹ lên trồng ở xã Đạ Ròn, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng, nơi có cao độ > 800 m so với mực nước biển, song song với việc tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống nhà xử lý ra hoa nhân tạo – lai tạo – dưỡng cờ thu hạt tại huyện Bến Cát. Đến năm 2012, sau 5 vụ lai tạo (2008 – 2012), có thể khẳng định được rằng đó là một quyết định hết sức đúng đắn, bởi số lượng tổ hợp lai thực hiện được hàng năm của Viện đã tăng lên nhiều lần so với bình quân 20 năm trước đó khi còn lai tạo duy nhất tại Bến Cát. Tỷ lệ giống bố mẹ trổ cờ hàng năm đều đạt trên 80% (so với điểm Bến Cát có nhiều năm tỷ lệ này không đáng kể). Tỷ lệ tổ hợp lai thành công cao, đạt từ 81,82 – 96,91% so với bình quân 41,67% của 20 năm trước, dẫn tới số lượng cây con lai (hay dòng lai mới) thu được hàng năm đã tăng lên hàng chục lần. Đặc biệt, trong điều kiện tự nhiên ở vùng Đơn Dương, Viện đã thực hiện được các tổ hợp lai xa giữa các giống mía thương phẩm với các loài mía hoang dại Erianthus và Miscanthus để tạo các giống mía có ưu thế lai cao. Đây là một xu hướng lai tạo mới của thế giới đang được nhiều nước triển khai thực hiện và bước đầu đã thu được một số kết quả rất khả quan.
Bảng 15. So sánh kết quả lai tạo và chọn dòng mía lai Việt Nam 5 năm gần đây và bình quân 20 năm trước (1988–2007)
TT |
Nội dung |
Đơn vị tính |
BQ 20 năm trước |
Năm 2008 |
Năm 2009 |
Năm 2010 |
Năm 2011 |
Năm 2012 |
1 |
Tỷ lệ giống bố mẹ trổ cờ |
% |
15,3 |
93,7 |
81,2 |
87,5 |
78,54 |
80,30 |
2 |
Số tổ hợp lai thực hiện hàng năm |
cặp |
12 |
22 |
33 |
43 |
101 |
97 |
3 |
Tỷ lệ tổ hợp lai thành công |
% |
41,67 |
81,82 |
84,85 |
88,37 |
86,14 |
96,91 |
4 |
Số cây con lai (dòng lai) hàng năm đưa vào sơ tuyển |
cây |
500 |
16.000 |
8.000 |
14.000 |
43.000 |
80.000 |
Hiện nay Viện Nghiên cứu Mía đường đang thực hiện chương trình lai tạo giống mía mới chủ yếu vẫn bằng phương pháp lai hữu tính và qua 2 bước chọn dòng (trước đây là 4 bước chọn dòng), với tổng thời gian từ 7-8 năm tính từ khi thu hoạch hạt lai đến khi giống hoàn thành khảo nghiệm sản xuất, chờ công nhận giống cho phép sản xuất thử. Thời gian này đã rút ngắn đáng kể so với trước đây (12-14 năm) và gần tương đương với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Việc sơ tuyển và chọn dòng bước 1, bước 2 hiện nay được Viện Nghiên cứu Mía đường thực hiện chủ yếu trên khu ruộng thí nghiệm của Viện tại xã Phú An, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Hạt lai sau khi thu hoạch, phơi khô được bao gói đưa vào bảo quản trong tủ lạnh hoặc mang đi gieo hạt ngay. Việc gieo hạt lai được thực hiện trong nhà kính, trên nền đất đã được xử lý, khử trùng và trộn với chất hữu cơ hoai mục theo tỷ lệ 1:1. Sau khi hạt mía nảy mầm từ 10-15 ngay, tiến hành gây nhiễm bệnh cho cây con lai. Sau đó chọn các cây con lai không bị nhiễm bệnh chuyển sang trong trong các bầu đất nylon. Sau 2-4 tháng chăm sóc, ươm bầu cây con lai trong vườn ươm, cây con lai được đem trồng ra đồng ruộng với khoảng cách cây cách cây là 50 cm x 50 cm, hàng cách hàng 1,2 m. Theo dõi, đánh giá trong thời gian từ 10-12 tháng sau khi trồng cây con lai ra ngoài đồng ruộng. Các dòng lai đã chọn được ở bước sơ tuyển được chuyển sang ruộng chọn dòng bước 1, mỗi giống được trồng thành 1 hàng dài khoảng 2 m và cứ cách 10-20 hàng thì trồng 1 hàng đối chứng là giống đang trồng phổ biến trong sản xuất. Theo dõi, đánh giá trong thời gian 2 vụ (1 vụ mía tơ và 1 vụ mía gốc). Những dòng lai đạt tiêu chuẩn chọn sẽ được chuyển sang bước 2 kế tiếp, còn những dòng không đạt tiêu chuẩn sẽ bị loại bỏ. Ở bước 2, các dòng lai được bố trí trồng thí nghiệm theo kiểu ô vuông latin (lattice) 5 x 5 hoặc 7 x 7. Mỗi ô thí nghiệm có 4 hàng, mỗi hàng dài 7,5-10 m và lấy giống mía tiêu biểu trong sản xuất làm đối chứng. Cũng tiến hành theo dõi, đánh giá trong thời gian 2 vụ (1 vụ mía tơ và 1 vụ mía gốc). Sau bước 2, những dòng ưu tú sẽ được đem trồng nhân giống ở một khu vực khác để có đủ khối lượng hom giống mang đi khảo nghiệm cơ bản, sau đó là khảo nghiệm sản xuất, sản xuất thử và công nhận giống ở các vùng sinh thái trồng mía khác nhau trên toàn quốc.
2.2.3 Định hướng nghiên cứu mía đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030
Theo chiến lược Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ của Viện nghiên cứu Mía đường đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã được phê duyệt tại Quyết định số 1274/QĐ-KHNN ngày 23/08/2013 của Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, trong thời gian tới, công tác nghiên cứu mía ở Việt Nam sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
i) Về giống mía:
- Tập trung, ưu tiên nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu cơ bản về giống để cung cấp cho từng vùng bộ giống phù hợp theo hướng ưu tiên tăng chữ đường hài hòa với tăng năng suất, đồng thời thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Thu thập, bảo tồn và khai thác có hiệu quả nguồn gen giống mía nhập nội và bản địa để cung cấp nguyên liệu khởi đầu cho công tác lai tạo giống mới và tuyển chọn dòng, giống mía lai có năng suất, chất lượng cao và ổn định phục vụ sản xuất.
- Nghiên cứu công nghệ nhân giống mía có hiệu quả kinh tế cao thích hợp với điều kiện các vùng sinh thái trồng mía ở Việt Nam.
- Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trồng mía trong đó chú ý hợp tác với Trung Quốc, Thái Lan, Philippine, Cuba, Úc và Ấn Độ để cải tạo và nâng cao chất lượng giống mía;
- Từng bước ứng dụng công nghệ sinh học mà trước hết là công nghệ tế bào, công nghệ gen, công nghệ vi sinh trong mối quan hệ hài hoà với công nghệ truyền thống để phục vụ công tác chọn tạo giống mới, quản lý dịch hại và bảo vệ môi trường.
ii) Về sinh lý, sinh hóa cây mía: Nghiên cứu về các cơ chế và quy luật tích lũy đường, cơ chế điều hòa gen mục tiêu đối với tính chống chịu và một số đặc tính hữu dụng khác của cây mía.
iii) Về kỹ thuật canh tác:
- Nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về phân bón, thiết bị cơ giới, phù hợp trong canh tác mía, công nghệ và thiết bị tưới nước cho cây mía nhằm nâng cao năng suất mía Việt Nam, từng bước tiệm cận với khu vực và thế giới;
- Nghiên cứu xây dựng và áp dụng các quy trình: Quản lý dịch hại tổng hợp (Integrated Pest Management – IPM), Quản lý Cây trồng Tổng hợp (Integrated Crop Managemment - ICM), Thực hành Nông nghiệp Tốt (G00d Agricultural Practices - GAP), và Thực hành Quản lý Tốt hơn (Better Management Practices- BMP) thích hợp cho từng vùng sinh thái trồng mía.
iv) Về thiết bị và công nghệ chế biến đường:
- Nghiên cứu ứng dụng các thiết bị và công nghệ tiên tiến trong công nghiệp chế biến đường để nâng cao tỷ lệ thu hồi đường, giảm thất thoát sau thu hoạch và trong quá trình chế biến.
- Nghiên cứu đa dạng hoá các sản phẩm từ mía đường, sử dụng có hiệu quả các phụ phẩm từ cây mía, chú trọng công nghệ sản xuất cồn nhiên liệu sinh học và phát điện từ cây mía.
v) Về kinh tế mía đường: Nghiên cứu về thị trường, giá thành sản phẩm trong chuỗi giá trị ngành hàng mía đường; năng lực cạnh tranh, lợi thế so sánh của cây mía; các giải pháp về kinh tế trong quản lý sản xuất.
vi) Về chính sách: Nghiên cứu các cơ chế chính sách phát triển mía đường trong mối quan hệ kinh tế hội nhập và toàn cầu hoá.
2.3 Tiềm năng phát triển mía đường của các vùng sinh thái nông nghiệp ở Việt Nam
Đất nước Việt Nam nằm gọn trong khu vực nội chí tuyến, phía Bắc 23°22B (Đồng Văn), phía Nam 8°30B (Cà Mau), trong vùng phân bố mía đường của thế giới. Ở nơi nào trên đất nước Việt Nam cây mía đều có thể sinh trưởng, người dân đều có thể trồng mía trong vườn để ăn tươi, giải khát hoặc chế biến đường.
Khoảng 250 năm trước Công Nguyên, người Âu Lạc đã biết trồng mía lấy mật, nấu đường. Nghề trồng mía nấu đường theo chân dân tộc Việt Nam xưa phát triển từ vùng núi trung du xuống đồng bằng sông Hồng vào đàng trong Nam Ngãi, Bình Phú cho đến đồng bằng sông Cửu Long. Tùy theo điều kiện địa lợi, nhân hòa mà hình thành những vùng mía lớn, nhỏ, rải rác như ở Phúc Hòa (Cao Bằng) với đường thẻ, Vĩnh Trụ (Hà Nam) lưu vực sông Hồng với mật trầm, đường tán; rồi đến đàng trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh ở Quảng Ngãi, lưu vực sông Trà Khúc với đường phèn, đường phổi nổi tiếng, hay Bình Định, Phú Yên lưu vực sông Côn, sông Ba với đường muỗn, đường bông, đến Biên Hòa trên sông Đồng Nai, Bến Tre xuống Đồng bằng sông Cửu Long.
Cho đến thế kỷ 19 nghề mía đường Việt Nam xem như một nghề phụ bên cạnh nghề trồng lúa. Trồng mía trên đất sỏi, đất bãi không trồng lúa được, ép che thủ công, trâu bò kéo, công suất ép 1 - 1,5 tấn mía ngày, ép mía nấu đường vào vụ Đông Xuân ở miền Bắc và Nam bộ; xuân hè ở miền Trung. Mỗi vụ ép khoảng 100 ngày. Mỗi lò che chỉ cần 3 - 4 ha mía (năng suất 35 - 45 tấn/ha), tương đương với diện tích đất trồng mía của mười hộ nông dân trong thôn, làng. Phổ biến là sản xuất tư liệu có đường ăn vào trung thu, ngày tết. Ở miền Trung có một phần xuất bán cho thương buôn nước ngoài ở cửa Hội An.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, bắt đầu cơ khí hóa nghề chế biến đường, ngoài che thủ công cơ khí, đã xây dựng một vài nhà máy đường 350 – 500 TMN. Với công suất 500 TMN, năng suất mía khoảng 50 tấn/ha, cần vùng mía có diện tích rộng 1.500 ha mía thu hoạch, kể cả 1/3 diện tích đất luân canh là 2.000 ha. Lúc bấy giờ xây dựng nhà máy ngoài điều kiện khí hậu, đã phải chú ý xem xét điều kiện đất đai, vị trí xây dựng nhà máy có đủ nước sử dụng cho nhà máy, mức độ tập trung của vùng mía, điều kiện giao thông, thủy lợi, điều kiện lao động và các cây trồng cạnh tranh với mía đường... Nghề trồng mía không còn là một nghề phụ nữa.
Nhà máy đường lớn dần từ 1.000 - 4.000 TMN thì vùng mía càng lớn, việc xác định đánh giá các điều kiện thích hợp càng quan trọng, bảo đảm thành công hay thất bại của một nhà máy hay nhiều nhà máy trong vùng, thậm chí cả nghề mía đường trong một quốc gia.
Nhìn tổng quát ảnh hưởng của vĩ độ đến tỷ lệ đường và năng suất mía trên thế giới có 2 công trình cụ thể sau:
Theo đường biểu diễn, ảnh hưởng của vĩ độ đến tỷ lệ đường mía (Hình 4) thì từ vĩ độ 10° Bắc (hoặc Nam) cho đến khoảng vĩ độ 24° Bắc (hoặc Nam), chữ đường có thể đạt được trên 12%, cao nhất ở khoảng vĩ độ 15 - 18° Bắc (hoặc Nam). Lãnh thổ Việt Nam đều nằm trong đường cong có tiềm năng tỷ lệ đường cao. Như vậy ở Cà Mau vĩ độ 8°3’ Bắc có chữ đường thấp nhất, tăng dần đến khoảng Vinh 18°41’ Bắc rồi giảm đến xuống thấp và nhanh dần lên phía Bắc.
Cần lưu ý Tây Nguyên tuy ở vĩ độ thấp, nhưng ở độ cao cao (Buôn Mê Thuột vĩ độ 12°40’, độ cao 401 m; Pleiku vĩ độ 13°59’, độ cao 781 m; Kon Tum vĩ độ 14°20’, độ cao 536 m) nên tỷ lệ đường cao hơn các địa phương cùng vĩ độ, mà có độ cao thấp.
Hình 4: Ảnh hưởng vĩ độ đến chữ đường và năng suất mía (Nguồn: theo Shaw, 1954 và Perumal, 1989 )
Mặt khác đường biểu diễn ảnh hưởng của vĩ độ đến năng suất mía (tấn/ha/tháng) của ở Hình 4 cũng cho thấy ở gần xích đạo có tiềm năng năng suất mía cao nhất khoảng trên 9,5 tấn/ha/tháng, càng xa xích đạo năng suất mía càng giảm. Như vậy ở Việt Nam càng về phía Nam năng suất mía càng cao vì điều kiện nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa đều tốt hơn. Cũng vậy, Tây Nguyên vì có độ cao cao, nên tiềm năng năng suất có phần thấp hơn các địa phương cùng độ cao, vì tuy có nhiều ánh sáng hơn, nhưng nhiệt độ và nước kém hơn.
Khi tư vấn cho ngành mía đường Việt Nam, ERSUC (Etudes et Recherches Sucrières - Cơ quan khảo sát nghiên cứu đường của Pháp, 1999) đã căn cứ vào các yếu tố chủ yếu của khí hậu để đánh giá tiềm năng mía đường các vùng sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam như sau:
Tiềm năng nông nghiệp căn cứ vào:
- Nhiệt độ trung bình năm, số ngày nhiệt độ < 19°C
- Số giờ nắng
- Biên độ nhiệt ngày đêm
- Phân bổ của vũ lượng, lượng nước thiếu
Từ những dữ liệu này ước tính gần đúng về tiềm năng năng suất mía và chữ đường (CCS), tiềm năng năng suất đường; từ tiềm năng năng suất đường nhân với hệ số 0,7 để ước tính lượng đường bán ra.
Bảng 16. Tiềm năng nông nghiệp mía của các vùng sản xuất
Vùng |
Năng suất (tấn/ha) |
CCS (%) |
Năng suất đường (tấn/ha) |
Đường bán (tấn/ha) |
Xếp hạng |
Trung du Bắc bộ |
73 |
9,5 |
6,9 |
4,8 |
1. Tiềm năng (TN) kém < 5,5 tấn đường/ha |
Đồng bằng sông Hồng |
75 |
9,0 |
6,8 |
4,7 |
1. TN kém |
Duyên hải Bắc Trung bộ |
84 |
9,6 |
8,0 |
5,6 |
2. TN trung bình (5,6 - 7,5 tấn đường/ha) |
Duyên hải Nam Trung bộ |
106 |
10,2 |
10,9 |
7,6 |
3. TN tốt (> 7,6 - 9 tấn đường/ha) |
Tây Nguyên |
104 |
10,6 |
11,0 |
7,7 |
3. TN tốt |
Miền Đông Nam bộ |
113 |
10,5 |
11,9 |
8,3 |
3. TN tốt |
Đồng bằng sông Cửu Long |
103 |
9,4 |
9,7 |
6,8 |
2. TN trung bình |
Về tiềm năng công nghiệp, căn cứ vào:
- Thời gian (số ngày) của vụ ép nhân với hệ số 0,85
- CCS.
Bảng 17. Ước tính tiềm năng công nghiệp chế biến đường của các vùng sản xuất
Vùng |
Vụ ép (ngày) |
CCS |
Tấn đường/tấn công suất |
Xếp hạng |
Trung du Bắc bộ |
148 |
9,5 |
12,0 |
2 (12 - 14 TĐ/TCS) |
Đồng bằng sông Hồng |
135 |
9,0 |
10,3 |
1 (<12 TĐ/TCS) |
Duyên hải Bắc Trung bộ |
126 |
9,6 |
10,3 |
1 |
Duyên hải Nam Trung bộ |
206 |
10,2 |
17,9 |
3 (> 14 TĐ/TCS) |
Tây Nguyên |
135 |
10,6 |
12,1 |
2 |
Miền Đông Nam bộ |
148 |
10,5 |
13,2 |
2 |
Đồng bằng sông Cửu Long |
140 |
9,4 |
11,2 |
1 |
Từ xếp hạng của 2 tiềm năng nông nghiệp và công nghiệp mà xếp hạng tiềm năng mía - đường
Bảng 18. Tiềm năng mía - đường của các vùng sản xuất
Vùng |
Tiềm năng nông nghiệp |
Tiềm năng công nghiệp |
Tiềm năng mía - đường |
Trung du Bắc bộ |
1 |
2 |
3 |
Đồng bằng sông Hồng |
1 |
1 |
2 |
Duyên hải Bắc Trung bộ |
2 |
1 |
3 |
Duyên hải Nam Trung bộ |
3 |
3 |
6 |
Tây Nguyên |
3 |
2 |
5 |
Miền Đông Nam bộ |
3 |
2 |
5 |
Đồng bằng sông Cửu Long |
2 |
1 |
3 |
Từ kết quả phân tích như trên, ERSUC đã đưa ra các kết luận như sau:
- Vùng có tiềm năng mía đường tốt: Duyên hải Nam Trung bộ, Gia Lai, Miền Đông Nam bộ.
- Vùng tiềm năng trung bình: Thanh Hóa, Kon Tum, Đắk Lắk, phía Bắc Đồng bằng sông Cửu Long.
- Vùng tiềm năng kém: Trung du Bắc bộ, Duyên hải Bắc Trung bộ, phía Nam Đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, đường biểu diễn của Shaw, Perumal hay của ERSUC chỉ mới căn cứ vào yếu tố khí hậu để xác định mức độ tốt xấu đối với mía đường. Còn những điều kiện khác chưa nghiên cứu đến như đất đai (tính chất đất, địa hình, mức độ tập trung), điều kiện thủy lợi, giao thông, nguồn nhân lực, kinh nghiệm, cây trồng cạnh tranh,...
Hiện chưa có một công trình nghiên cứu nào toàn diện về vấn đề trên. Chúng tôi chỉ cố gắng tập hợp những tài liệu hiện có để bổ sung nhận định về tiềm năng các vùng cho cụ thể hơn.
2.3.1 Vùng nông nghiệp Trung du miền núi phía Bắc
- Thuộc miền sinh thái nông nghiệp phía Bắc.
- Khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh.
- Nhiệt độ trung bình 18 - 23°C, mỗi năm có 4 - 5 tháng nhiệt độ trung bình thấp hơn 20°C, có từ 1 - 4 ngày sươn muối, nhiệt độ thấp nhất -0,8°C đến -5°C. Biên độ nhiệt ngày đêm 7 - 8°C, số giờ nắng 1.400 - 1.600 giờ/năm.
- Lượng mưa bình quân 1.400 - 2.000 mm/năm, mùa mưa kéo dài 6 - 7 tháng, từ tháng 4, 5 đến tháng 9, 10.
- Cây trồng chủ yếu dựa vào nước trời. Những yếu tố khí hậu trên hạn chế thời gian và tốc độ tăng trưởng của mía, năng suất không cao, có nguy cơ bị hại do sương muối. Mùa ít mưa kéo dài 6 tháng, nhưng có đến 40 - 50 ngày mưa phùn. Thời khô ráo thích hợp cho thu hoạch < 130 ngày. Riêng Tây Bắc (Lai Châu, Điện Biên, Sơn La) khuất bên sườn Tây dãy Hoàng Liên Sơn, bình quân nhiệt độ cao hơn, mùa đông ấm hơn Việt Bắc, Đông Bắc 2 - 3°C, biên độ nhiệt ngày đêm cao 8 - 10°C, giờ nắng 1.800 - 2.000 giờ.
- Về đất đai: Đất tự nhiên 9.910.200 ha, đất nông nghiệp 1.308.693 ha. Đất chưa sử dụng có khả năng khai phá 4,74 triệu ha. Bình quân đất nông nghiệp 1.182 m2/người.
- Địa hình đồi núi chia cắt, đất có độ dốc < 15° chỉ có 13 - 18%, diện tích đồi núi chiếm 95% diện tích vùng. Vì địa hình chia cắt, độ dốc cao, nên không có diện tích mía tập trung, nhỏ, chia cắt.
- Đất chủ yếu là các nhóm đất đỏ vàng và đất mùn trên núi, chiếm 79,7%, đất phù sa các loại chỉ 2,6%. Đất đỏ vàng có phản ứng chua pHKC1 từ 3,5 - 5,5; hàm lượng mùn, đạm tổng số từ nghèo đến trung bình.
- Cơ sở hạ tầng kém phát triển, giao thông khó khăn, cây trồng chủ yếu nhờ nước mưa, và nguồn nước thiếu vào mùa khô.
- Trình độ dân trí và am hiểu kỹ thuật nông nghiệp còn hạn chế. Mật độ dân số 109 người/km2 (chỉ bằng 47,1% bình quân cả nước 232 người/km2) nên thiếu lao động vào mùa thu hoạch mía.
- Những cây cạnh tranh với mía ở vùng này là chè, cà phê, cây ăn quả có thuận lợi hơn.
- Cây mía đã có trồng từ lâu như ở Phúc Hòa (Cao Bằng), vùng ven sông Lô (Tuyên Quang), hay sông Hồng (Việt Trì) nhưng không phát triển được từ những năm 1960 đến nay. Nhà máy đường Việt Trì với công suất rất nhỏ chỉ 350 – 580 TMN vẫn thiếu nguyên liệu, phải di dời sang nơi khác. Giao thông đường thủy (chở mía) chậm trễ giảm phẩm chất mía.
- Tóm lại từ điều kiện khí hậu, đất đai, diện tích vùng, cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, lao động, cây trồng cạnh tranh và thực tiễn trồng mía chứng tỏ vùng này tiềm năng mía đường kém.
2.3.2 Vùng nông nghiệp đồng bằng sông Hồng
- Thuộc miền sính thái nông nghiệp phía Bắc.
- Khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh.
- Nhiệt độ trung bình 23 - 24°C, mỗi năm có 4 tháng nhiệt độ trung bình thấp hơn 20°C, nhiệt độ thấp nhất 3 - 60°C, biên độ nhiệt ngày đêm 6 - 7°C.
- Giờ nắng trung bình 1.600 - 1.700 giờ.
- Lượng mưa trung bình năm 1.600 - 1.800 mm. Mùa mưa kéo dài 6 tháng từ tháng 5-10. Mùa ít mưa kéo dài 6 tháng từ tháng 11 - tháng 4, tuy là mùa ít mưa, nhưng trong 2 tháng 2 và 3 có đến 30 - 45 ngày mưa phùn, ẩm ướt, ẩm độ cao 86 - 88%.
- Bão ảnh hưởng từ tháng 7-10.
- Với điều nhiệt độ trên, thời gian sinh trưởng của mía ngắn, mùa mưa tích lũy đường biên độ nhiệt 6 - 7°C thấp, lại có mưa phùn nhiều vào cuối mùa thu hoạch. Tỷ lệ đường không cao, thời gian màu thu hoạch chế biến < 150 ngày.
- Đồng bằng sông Hồng được đặc trưng bởi bề mặt bằng phẳng và hơi nghiêng ra biển. Đồng bằng bồi tích chênh lệch độ cao từ 0 - 10m, vùng bồi đắp sản phẩm phù sa sông Hồng bằng phẳng, ít đồi núi hơn vùng bồi đắp của phù sa sông Thái Bình.
- Diện tích đất tự nhiên 1.476.595 ha, đất nông nghiệp 853.862 ha, bình quân đất nông nghiệp 499 m2/đầu người, 0,2 - 0,4 ha/hộ. Đất chưa sử dụng 190.011 ha.
- Các nhóm đất chủ yếu:
+ Đất phù sa mới châu thổ sông Hồng, phù sa cổ Hà Tây 35,9% diện tích
+ Đất đỏ vàng 21,96%
+ Đất xám bạc màu Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên 1,4%
+ Ngoài ra còn đất phèn, mặn, trũng...
- Đất phù sa sông Hồng nhìn chung tốt, thành phần cơ giới trung bình và nặng. Độ chua trung bình hay ít, độ no base cao, mùn đạm tổng số trung bình, lân tổng số trung bình đến khá, kali tổng số và dễ tiêu cao.
- Đất đỏ vàng như vùng 1.
- Đất xám bạc màu thành phần cơ giới nhẹ, rất thiếu ẩm, đất chua, nghèo mùn (0,3 - 0,5%) hàm lượng dinh dưỡng thấp. Mức độ phân giải chất hữu cơ mạnh (C/N < 7), nghèo cation trao đổi.
- Hệ thông thủy lợi tốt, có khả năng tưới 80 - 85% diện tích lúa.
- Giao thông vận tải thuận lợi, nhiều đô thị và các khu công nghiệp mới phát triển. Cơ sở hạ tầng phát triển. Trình độ dân trí cao.
- Đây là vùng đất chật, người đông. Cây mía khó cạnh tranh nổi với các cây khác như lúa, nhất là rau, đậu đỗ, cây ăn quả, phục vụ các đô thị, khu công nghiệp. Từ những năm 1960 đến nay, ngay tại vùng giàu nhân lực, đất màu mỡ phù sa mới và cũ của sông Hồng ở Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nam vẫn không hình thành nổi vùng mía 3.000 ha mía thu hoạch để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy đường Vạn Điểm 1.000 TMN, nhà máy đã phải đóng cửa, tháo dỡ.
- Vùng này nhất là ven sông Hồng có những thôn làng trồng mía thâm canh có kinh nghiệm lâu đời của Hà Nội (thuộc Hà Tây cũ), Hà Nam chỉ sản xuất thủ công, tự sản tự tiêu trong vùng nông thôn.
- Nhìn chung tiềm năng mía đường “hiện đại” kém.
2.3.3 Vùng nông nghiệp Bắc Trung bộ (khu 4 cũ)
- Thuộc miền sinh thái nông nghiệp Đông Trường Sơn, Bắc Trung bộ, từ vĩ tuyến 16°Bắc đến 21°30’ Bắc. Phía Bắc đèo Hải Vân. Diện tích đất tự nhiên 5.150.069 ha. Đất nông ghiệp 725.428 ha, bình quân đất nông nghiệp ha/người: Thanh Hóa 0,068 ha, Nghệ An 0,063 ha, Hà Tĩnh 0,076 ha, Quảng Bình 0,075 ha, Quảng Trị 0,1 ha, Thừa Thiên Huế 0,053 ha.
- Đất chưa sử dụng 1.918.598 ha (đất bằng 115.095 ha, đồi núi 1.505.034 ha).
- Đây là miền núi thấp, hẹp ngang, sườn dốc, kéo dài theo hướng Tây Bắc, Đông Nam. Địa hình bao gồm nhiều dãy núi song song và so le nhau, có nơi chia nhánh đâm ra biển, chia dải đồng bằng nhỏ hẹp ven biển thành những vùng riêng biệt. Độ cao trung bình toàn vùng 650 - 700m.
- Hai khu vực đồng bằng ven biển là Vùng Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh và Quảng Bình – Quảng Trị - Thừa Thiên Huế.
- Do đặc điểm khí hậu (mưa) nên chia thành 2 tiểu vùng nhỏ.
a) Tiểu vùng Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh:
- Khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh.
- Nhiệt độ bình quân năm 23 - 24°C, nhiệt độ thấp nhất 3 - 7°C, hàng năm có 3 tháng nhiệt độ bình quân dưới 20°C. Biên độ nhiệt ngày đêm 6 - 7°C, giờ nắng 1.650 giờ/năm.
- Mùa đông ít lạnh hơn phía Bắc.
- Lượng mưa: Thanh Hóa và vùng núi Tây Bắc Nghệ An: 1.600 - 2.000 mm, đồng bằng Nghệ An 1.400 - 1.600mm, Nam Nghệ An, Hà Tĩnh 2.500 - 3.000mm.
- Mùa mưa kéo dài 6-7 tháng, bắt đầu tháng 5 kết thúc tháng 10 ở Thanh Hóa, và tháng 11 ở Nam Nghệ Tĩnh.
- Mùa ít mưa từ tháng 11, 12 đến tháng 4, Thanh Hóa 6 tháng, Nghệ Tĩnh 5 tháng. Tuy là mùa ít mưa nhưng lượng mưa 30 - 40mm và số ngày mưa cũng không kém (Thanh Hóa có khoảng 7 ngày mưa và Nghệ Tĩnh 11 - 12 ngày mưa).
- Hom mía được lấy suốt các tháng mùa đông (mùa ít mưa) khí hậu rất ẩm ướt, độ ẩm trung bình trên 85%.
- Đặc biệt đầu mùa hạ có một thời gian khô nóng do gió Tây (gió Lào) nhất là ở đồng bằng Nghệ Tĩnh và trong thung lũng sông Cả, hàng năm có 20 - 30 ngày có gió Tây (từ tháng 4 - 7), ở Thanh Hóa ít ngày có gió Tây khô nóng hơn. Những tháng 5, 6, 7 lại ít mưa mà gió Tây khô nóng ảnh hưởng nhiều đến tốc độ tăng trưởng trong thời kỳ tăng trưởng mạnh của mía, nhất là vùng Nghệ Tĩnh.
- Bão xuất hiện từ tháng 7-10, nhiều nhất vào tháng 9.
Bảng 19. Các nhóm đất chính ở vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh
Đất đai |
Các nhóm đất chủ yếu |
|||
Thanh Hóa |
Nghệ An – Hà Tĩnh |
|||
Diện tích (ha) |
Tỷ lệ (%) |
Diện tích (ha) |
Tỷ lệ (%) |
|
- Nhóm đất phù sa: + Phù sa được bồi - Nhóm đất đỏ vàng + Đất nâu đỏ trên đá macma base và trung tính + Đất đỏ nâu trên đá vôi + Đất nâu vàng trên phù sa cổ |
162.745 7.980 588.116 105.632 2.276 5.772 |
14,6
52,8 |
213.684 38.193 1.339.232 17.600 19.000 13.854 |
9,54
59,84 |
- Đất phù sa được bồi: pHKC1 5,3 - 5,9 ít chua, mùn nghèo 0,5 - 1,8, đạm tổng số nghèo 0,05 - 0,13, lân tổng số 63 hơi nghèo, kali tổng số 0,41 - 0,48, lân dễ tiêu nghèo (2,7- 3,2 mg/100g đất), kali dễ tiêu nghèo đến trung bình 6-10,5, C/N 8,8 - 13,1 phân giải chất hữu cơ nhanh, cation trao đổi thấp (0,63 - 0,83 meq/100g đất).
- Đất nâu đỏ trên đá macma base và trung tính: Phân địa hình đồi bằng hay lượn sóng như Phủ Quỳ (Nghệ An), Như Xuân pHKC1 4,6. Mùn trung bình 1,4 - 3,0, đạm tổng số 0,2%, lân tổng số giàu 0,73 - 0,77%, kali 2,8%, lân dễ tiêu nghèo 0,19 - 2,0 mg/100g đất, kali dễ tiêu 8,2 - mg/100g đất, C/N 10 - 10,3 cân đối. Đây là loại đất tốt, tầng đất rất dày, thành phần cơ giới thường nặng, nhưng kết cấu tốt nên tơi xốp thoáng khí. Đất này dành cho cà phê, hoặc cây ăn quả.
- Đánh giá về tiềm năng mía đường:
+ Khu vực Thanh Hóa và Tây Bắc Nghệ An: Lượng mưa nhiều, ít gió Tây khô nóng, đất đai tương đối tốt hơn, tập trung hơn. Các cây cạnh tranh là lạc, cà phê, cao su (ở vùng phía Tây). Mùa chế biến khoảng 150 ngày dài hơn đồng bằng Nghệ An, Hà Tĩnh. Tiềm năng mía đường trung bình khá.
+ Khu vực đồng bằng Nghệ An và Hà Tĩnh: Thuộc vùng đất phù sa lưu vực sông Lam, tuy có kinh nghiệm trồng mía từ lâu đời, nhưng từ 1960 đến nay nhà máy đường sông Lam 350 TMN vẫn trong tình trạng thiếu mía, do ảnh hưởng gió Tây khô nóng, lại không có điều kiện tưới nên mía sinh trưởng bị ảnh hưởng, hơn nữa cây lạc, bắp cạnh tranh với mía. Vùng mía cũng không tập trung rộng như Thanh Hóa hay phía Bắc Nghệ An. Thời vụ thu hoạch cũng ngắn hơn. Nói chung tiềm năng mía - đường (hiện đại) kém. Nên để tiếp tục phát triển đường thủ công rải rác những nơi có kinh nghiệm như một nghề phụ.
b) Tiểu vùng Bình - Trị - Thiên (từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân)
- Khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa mưa lệch với bình thường (khí hậu Đông Trường Sơn).
- Nhiệt độ bình quân năm 24 - 25°C, nhiệt độ thấp nhất 8-9°C. Mỗi năm chỉ có 1 tháng nhiệt độ trung bình dưới 20°C. Mùa đông còn tương đối lạnh. Tháng 12, 1, 2 ở đồng bằng nhiệt độ bình quân thấp hơn 22°C. Biên độ nhiệt 7 - 8°C.
- Số giờ nắng 1.500 - 1.800 giờ.
- Vùng này là một trong những trung tâm mưa nhiều nhất toàn quốc. Vũ lượng bình quân năm 2.500 - 3.000mm. Mùa mưa từ tháng 8 - tháng 1 (6 tháng). Mùa ít mưa từ tháng 2 - tháng 7 (6 tháng). Tuy vậy trong mùa ít mưa, mỗi tháng vẫn còn 60 - 80mm mưa, và 7 - 8 ngày mưa.
- Ẩm độ bình quân 85 - 88% cao nhất nước, tháng ẩm thấp nhất là giữa mùa đông (tháng 12) 90 - 93%.
- Vùng này vẫn còn gió Tây khô nóng không kém gì Nghệ An, Hà Tĩnh. Lại là một trong những vùng chịu tác hại nhiều của bão trong tháng 9 - 10.
- Tuy thời gian nhiệt độ trên 20°C dài, nhưng vào mùa có nhiệt độ cao, nhiều ánh sáng như xuân hè thì lại khô hạn, gió Tây, cây mía sinh trưởng kém, đến mùa nhiệt độ ấp để cây mía tích lũy đường thì lại mưa, quá nhiều nước, mía ít đường.
- Tóm lại năng suất và tỷ lệ đường không cao. Tuy mùa thu hoạch có thể kéo dài.
- Về đất đai:
+ Đất phù sa 3,95% diện tích tự nhiên Nhóm đất đỏ vàng 55,1%
+ Nhiều cồn cát và bãi cát 4,52%
+ Nói chung vùng này kém tập trung và không tốt hơn vùng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh.
- Chưa có kinh nghiệm trồng mía, nấu đường.
- Thủy lợi chưa phát triển. Cây trồng cạnh tranh là lúa, hoa màu lương thực và cà phê, cao su.
- Tiềm năng mía - đường (hiện đại) kém.
2.3.4 Vùng nông nghiệp Duyên hải miền Trung
- Thuộc miền sinh thái nông nghiệp Đông Trường Sơn (vùng Duyên hải Nam Trung bộ).
- Bắt đầu từ dãy Bạch Mã đến miền Đông Nam bộ, phía Tây đồi núi thuộc dãy Trường Sơn chiếm đa số diện tích của vùng. Phía Đông giáp biển, từ Bắc xuống Nam là những đồng bằng hẹp duyên hải ngăn cách bởi những nhánh núi ngang tiến ra sát biển. Gồm các tỉnh thành: Đà Nang, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
- Khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa mưa lệch với bình thường.
- Nhiệt độ bình quân năm 26 - 26,5°C, nhiệt độ thấp nhất 11 - 16°C, ba tháng giữa mùa đông, nhiệt độ trung bình ở khu vực phía Bắc khoảng 21,5 - 22°C, tối thấp, trung bình khoảng 19 - 20°C. Bắt đầu từ vùng này trở vào Nam đã không còn mùa đông lạnh. Biên độ nhiệt ngày đêm 6-8°C, đầu và giữa mùa hè 8 - 10°C.
- Số giờ nắng càng vào phía Nam càng cao 1.700 giờ đến 2.400 giờ.
- Lượng mưa. Khác biệt nhiều trong vùng, càng vào phía Nam lượng mưa càng giảm. Quảng Nam, Quảng Ngãi 2.000 - 2.300mm, ẩm độ bình quân 85%; Bình Định, Phú Yên 1.600-1.700mm; Khánh Hòa 1.300 - 1.400mm; Ninh Thuận dưới l.000mm
- Mùa mưa: Quảng Nam, Quảng Ngãi 6 tháng, từ tháng 8 - 1; Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa 4 tháng mưa từ tháng 9 - 12; Ninh Thuận 3 tháng, từ tháng 9 - 11.
- Mùa ít mưa: Quảng Nam, Quảng Ngãi 6 tháng, từ tháng 2 - 7; Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa 8 tháng, từ tháng 1 - 8; Ninh Thuận 9 tháng, từ tháng 12 - 8
- Các điều kiện của Bình Thuận giống như ở miền Đông Nam bộ.
- Về đất đai:
+ Diện tích đất tự nhiên 4.425.574 ha
+ Đất nông nghiệp 807.033 ha
+ Đất chưa sử dụng 1.629.284 ha (trong đó đất bằng 180.654 ha)
- Bão thường xuất hiện từ tháng 9 - 10. Tương đối ít, bão và không dữ dội như ở các tỉnh ven biển phía Bắc.
- Các nhóm đất chủ yếu có thể trồng mía là:
+ Đất đỏ vàng chiếm 63,6% đất tự nhiên, trong đó có 61% là đất vầng đỏ trên macma axit.
+ Đất xám 9,56%
+ Đất phù sa 8,38%
- Quảng Nam, Đà Nẵng có vùng đất phù sa sông Thu Bồn. Vùng đất feralit vàng đỏ trên macma axit Tiên Phước, Trà My; Vùng đất feralit vàng đỏ trên sa phiến thạch thượng lưu sông Thu Bồn.
- Ở Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên:
+ Vùng đất xám, đất phù sa đồng bằng Quảng Ngãi,
+ Vùng đất xám, đất cát đồng bằng Bình Định
+ Vùng đất phù sa sông Ba đồng bằng Tuy Hòa
+ Vùng đất feralit vàng đỏ trên macma axit Sơn Hà, Ba Tơ (Quảng Ngãi), An Lão, Bình Kê (Bình Định), Vân Canh, Sông cầu (Phú Yên).
- Ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận:
+ Vùng đất phù sa, đất cát Khánh Hòa, Phan Rang
+ Vùng đất phù sa, đất cát đỏ Ninh Thuận, Bình Thuận
+ Vùng đất xám nâu khô hạn Phan Rang (Ninh Thuận)
+ Vùng đất íeralit đỏ vàng trên macma axit Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
- Nhìn chung đất đồi núi, dốc nhiều, chia cắt chiếm tỷ lệ khoảng 60%, có tỷ lệ trồng dày dưới 50cm khoảng 30%.
- Đất vàng đỏ trên macma axit ở vùng duyên hải Nam Trung bộ có 1.524.320 ha, 14,2% có độ dốc < 15°; 15,1% ở độ dốc 15 - 25°.
- Tầng dày > 100cm 9,5%; 50 - 100cm 12,5%, < 50cm 78%, đất có thành phần cơ giới nhẹ. pHKCl 5,2 - 4,8 chua, mùn (2,18 - 0,88) nghèo, đạm tổng số 0,09 - 0,03, lân tổng số 0,041 - 0,029, kali tổng số 0,24 - 0,28 đều nghèo, P dễ tiêu nghèo 1,58 - 1,56 mg/100g đất, nghèo, kali dễ tiêu nghèo 9,00 - 7,10 mg/100g đất; C/N 14 - 13,9; cation trao đổi thấp.
- Đất xám bạc màu trên phù sa cổ khoảng 168.078 ha, 90,3% có tầng đất dày > 50cm.
- Đất có phản ứng vừa đến ít chua, N, K, P tổng số và dễ tiêu đều nghèo. Mùn nghèo, mức phân giải chất hữu cơ mạnh (C/N < 10), cation trao đổi thấp.
- Tuy nhược điểm là hơi chua, nghèo dinh dưỡng, thường bị khô hạn, nhưng thường phân bố ở địa hình bằng, thoải, thường có mực nước ngầm nông. Đất thông thoáng dễ thoát nước, dễ làm đất, được sử dụng lâu năm với cây trồng cạn.
- Đất xám bạc màu trên đá macma axit diện tích khoảng 262.439 ha, tầng đất dày > 50cm chiếm 72%, thành phần cơ giới nhẹ, chua và nghèo dinh dưỡng, thường có mực nước ngầm sâu.
- Đất phù sa: Nhìn chung có phản ứng hơi chua, pHKCl dao động trên dưới 5,0. Hàm lượng mùn thấp, đạm và lân tổng số đều nghèo (N: 0,05 - 0,1%; P2O5: 0,03 - 0,07%), hàm lượng kali tổng số trung bình đến khá (0,4 - 0,7%). Lân dễ liêu nghèo (3-5 mg/100g đất), kali dễ tiêu nghèo đến trung bình (8 - 10 mg/100 đất).
- Nói chung thành phần cơ giới nhẹ, riêng phù sa sông Ba (Phú Yên) phần lớn có thành phần cơ giới thịt nặng đến sét.
- Đa số đất trồng mía lâu nay của Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên là đất phù sa các sông Trà Khúc, sông Vệ, sông Côn và sông Ba.
- Về thủy lợi:
+ Các sông vùng này đều ngắn, trừ sông Đà Nẵng, đất dễ thoát nước, gần biển nên đến mùa khô thường còn ít nước. Các địa phương đã chú ý xây dựng các công trình thủy lợi để tăng diện tích tưới. Ở Quảng Ngãi có công trình thủy lợi Thạch Nham, tưới cho lúa và mía nhà máy Quảng Ngãi, hồ nước trong... Phú Yên có đập Đồng Cam tưới cho lúa và một phần diện tích mía ở nhà máy đường Tuy Hòa. Ở Bình Định thủy lợi có khả năng tưới 73% diện tích lúa, Khánh Hòa tưới trên 20% diện tích canh tác. Nước của hệ thống sông Đồng Nai qua thủy điện Đa Nhim đã chuyển về cho Ninh Thuận, Bình Thuận.
+ Tuy vậy vùng này cần phát triển thêm đập, hồ nhờ đó tăng thêm nguồn nước tưới.
- Điều kiện giao thông thuận lợi cả đường bộ, đường biển.
- Đã có tập quán và kinh nghiệm trồng mía lâu đời như các vùng mía ở Quảng Ngãi, ở Phú Yên, ở Phan Rang từ thời xa xưa để nấu đường thủ công, và từ những năm 1930 đến nay cung cấp cho các nhà máy đường Đồng Bò (Tuy Hòa) và từ thập kỷ 70 đến nay cho nhà máy dường Phan Rang (Tháp Chàm) và Quảng Ngãi.
- Cây trồng cạnh tranh với mía là lúa, bắp, đậu phộng, thuốc lá, bông, nho và cả sắn.
- Ở vùng Nhà máy đường Quảng Ngãi từ 1975 đến 2001 - 2002 chữ đường CCS của mía đều cao hơn mía của các nhà máy đường phía Nam như Bình Dương, Hiệp Hòa, La Ngà.
- Đặc biệt vùng này có mùa ít mưa kéo dài 6 tháng (180 ngày) ở Quảng Ngãi và 8 tháng ở Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và 9 tháng ở Ninh Thuận là điều kiện thuận lợi để thực hiện một vụ chế biến từ 180 ngày đến 250 ngày, tăng 20 - 70% so với các vùng có thời gian chế biến 150 ngày. Đây là điều kiện thuận lợi cho công nghiệp mía đường hiện đại để tăng hiệu quả sử dụng công suất và hạ giá thành.
- Vùng này đất hẹp, địa hình lại chia cắt cho nên không có điều kiện để xây dựng các nhà máy lớn trên 3.000 - 4.000 TMN (tùy theo vùng). Nhưng lưu ý một nhà máy 3.000 TMN ở vùng này ví dụ ở Quảng Ngãi với 200 ngày chế biến sẽ tương đương công suất 1 nhà máy 4.000 TMN ở vùng chế biến 150 ngày.
- Thực hiện ở Quảng Ngãi trong 10 vụ sản xuất từ 1975-1976 đến vụ 1984-1985, nhà máy đường Quảng Ngãi đã bắt đầu vụ chế biến từ 15/11 kết thúc vào tháng 6, trên 200 ngày đã đạt CCS bình quân vụ 11,23.
- Vấn đề còn lại là giải quyết vấn đề thủy lợi để tưới bổ sung cho vùng phía Bắc hay tưới cho vùng phía Nam, tính toán chế độ trồng rải vụ và chế độ luân canh hợp lý.
- Tiềm năng mía đường hiện đại vùng này là tốt.
2.3.5 Vùng nông nghiệp Tây Nguyên
- Thuộc vùng sinh thái nông nghiệp Tây Trường Sơn và Nam bộ từ 14°2 Bắc - 11°57 Bắc, gồm các tỉnh Kontum, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng.
- Là vùng núi và cao nguyên rộng lớn thuộc sườn phía Nam dãy Trường Sơn.
- Phía Bắc là cao nguyên Gia Lai, Kon Tum cao 500 - 700m.
- Phía giữa là cao nguyên Đắk Lắk cao 300 - 600m.
- Phía Nam là cao nguyên Langbiang 1.500m và cao nguyên Di Linh cao 800 - l.000m.
- Vùng này thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình.
Bảng 20. Đặc điểm khí hậu vùng nông nghiệp Tây Nguyên
Độ cao |
Phía Bắc Kontum - Gia Lai |
Phía giữa Đắk Lắk |
Phía Nam Langbiang - Di Linh |
Ghi chú |
700 - 500m |
300-600m |
1.500m /800 - l.000m |
||
Nhiệt độ bình quân năm Trung bình tháng thấp nhất Tối thấp Biên độ ngày |
20-30°C 20,7-18,8°C 3,8-5,8°C 11°C |
23-24°C 21,4°C 9,6°C 9,0°C |
18-19°C 16,2-18,3°C 0,6-4,2°C 11,5-10°C |
- Tháng 12 lạnh nhất - Các tháng mùa khô 1, 2, 3 biên độ 12 - 15°C |
Giờ nắng |
2.000-2.200 |
2.000-2.200 |
1.700-2.000 |
|
Lượng mưa (mm) Số ngày mưa |
2.000-2.500 132-233 |
1.800-2.000 138 |
2.400-2.800 165-199 |
|
Mùa mưa Mùa khô |
Từ tháng 4 – 10 (7 tháng) Từ tháng 11- 3 (5 tháng) |
Tháng 4-11 Từ tháng 12-3,4 |
|
- Khó khăn về khí hậu ở đây là mùa khô gay gắt và kéo dài, hơn nữa đặc điểm của địa hình khó giữ nước nên trong mùa này dễ gặp hạn nghiêm trọng. Để khắc phục công tác thủy lợi đã được chú ý. Đến 1999 toàn vùng có 921 công trình hồ chứa; đập dâng nước, tưới được khoảng 45.850 ha lúa và 85.720 ha cà phê (379 công trình). Phía Tây 2 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, thượng nguồn sông Sêsan có 6 điểm có khả năng xây dựng thủy điện.
- Phía Nam Buôn Ma Thuột có hồ Đắk Lắk và trong thung lũng rộng của các sông Krông Ana, Krông Knô, Ia Krông là nhánh của sông mẹ Srepoc thuộc lưu vực sông Mekong, cũng có đến 10 điểm có thể làm thủy điện.
- Về đất đai: Tây Nguyên có 5.440.600 ha đất tự nhiên; đất nông nghiệp 1.233.700 ha. Đất chua 1.050.000 ha, có thể khai phá 700.000 ha.
- Các nhóm đất chủ yếu:
+ Đất đỏ vàng 3.078.435 ha (57,55% diện tích đất tự nhiên) trong đó đất đỏ bazan 1.311.419 ha (25%) như vùng đất feralit nâu đỏ bazan ồ cao nguyên Pleiku, Đắk Lắk, hay ở Đắk Nông, Bảo Lộc. 74% đất đỏ bazan ở độ dốc dưới 15°, 83% có tầng dày trên 1m. Đất khá giàu đạm tổng số (0,1 - 0,3%), lân 0,1 - 0,5%, lân dễ tiêu trung bình (5 - 20 mg/100g đất), kali dễ tiêu trung bình (7 - 20 mg/100g đất).
- Đất có thành phần cơ giới nặng, hàm lượng sét cao, nhưng cấu trúc tốt, độ xốp cao, dung trọng thấp. Phản ứng chua, pHKCl 4,0 - 4,5.
- Đất xám bạc màu chiếm 15,18% diện tích tự nhiên, như ở cao nguyên Kon Tum, thung lũng An Khê, Phú Thiện, thung lũng sông Krông Ana, Easup,... Đất chua vừa, hoặc ít chua, nghèo mùn và các chất tổng số và dễ tiêu. Thành phần cơ giới nhẹ, thiếu ẩm, khả năng giữ nước giữ màu kém.
- Đất phù sa chiếm khoảng 3,25% như ở An Khê, Cheo Reo, thung lũng sông Krông Ana, lưu vực sông Ba... Đa số có phản ứng chua pHKCl 3,7 - 4,5, đất phù sa glây và phù sa úng nước mưa mùa hè có phản ứng rất chua. Đất phù sa sông Ba (Đà Rằng), vùng An Khê, Cheo Reo ít chua, có thành phần cơ giới từ thịt nặng đến sét.
- Nhìn chung hàm lượng mùn nghèo đến trung bình (1,0 - 3,0%) mức độ phân giải chất hữu cơ kiệt (C/N thường dưới 5) tổng số cation kiềm trao đổi thấp (4-5 meq/100g đất), độ no base từ 20 - 50%.
- Điều kiện giao thông còn hạn chế, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, trình độ dân trí còn hạn chế. Chưa có kính nghiệm sản xuất mía đường (trừ vùng thấp Đức Trọng).
- Điều kiện khí hậu ôn hòa nhất là Gia Lai, Đắk Lắk và vùng thấp của Lâm Đồng (Đức Trọng), tháng lạnh nhất nhiệt độ cũng trên 19 - 20°C, số giờ nắng cao, mùa khô 5 tháng, biên độ nhiệt ngày đêm cao 12 - 15°C, thích hợp cho cây mía tích lũy đường. Mùa thu hoạch có thể đạt 150 ngày.
- Cần đặc biệt chú ý khai thác nguồn nước, giải quyết vấn đề tưới, cũng như vấn đề chống xói mòn bảo vệ đất, nước.
- Cây trồng thích hợp của vùng này lâu nay là cà phê, chè, lạc, đậu tương, bông đều là cây cạnh tranh với mía ở vùng đất ít dốc.
- Tiềm năng phát triển mía đường hiện đại trung bình – khá.
2.3.6 Vùng Đồng bằng Nam bộ
- Thuộc vùng sinh thái nông nghiệp Tây Trường Sơn và Nam bộ gồm 2 vùng Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
- Khí hậu vùng Đồng bằng Nam bộ là khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ quanh năm cao, mùa mưa và mùa khô tương phản sâu sắc.
- Nhiệt độ bình quân 26 - 27°C. Ở miền Đông trên các bậc thềm cao 100 - 200m, nhiệt độ thấp hơn 26°C một ít. Nhiệt dộ quanh năm biến thiên rất ít. Quanh năm không có tháng nào nhiệt độ xuống dưới 25°C. Biên độ nhiệt ngày đêm lớn, bình quân 7 - 8°C. Ở miền Đông Nam bộ là 9 - 10°C. Các tháng giữa mùa khô (từ tháng 1 - 4) trong toàn vùng nhiệt độ đạt 8 - 10°C; riêng miền Đông 10 - 12°C, thậm chí 13 - 14°C.
- Giờ nắng trung bình năm 2.000 - 2.400 giờ, là vùng nhiều nắng nhất toàn quốc.
- Lượng mưa thay đổi theo vùng nhỏ. Miền Đông: 1.800 - 2.200mm. Miền Tây: 1.400 - 1.500mm. Cực Tây: 2.000 - 2.200mm (Kiên Giang, Cà Mau). Mùa mưa từ tháng 5 - 11 (7 tháng) lượng mưa phân bố đều. Mùa khô từ tháng 12 “ 4 (5 tháng).
- Độ ẩm bình quân năm 82 - 83%; mùa mưa 83 - 85%, mùa khô 77 - 78%.
- Đồng bằng Nam bộ ít có bão, nếu có thì sức gió cũng yếu và lượng mưa thấp.
Về nông nghiệp vùng này chia làm 2 tiểu vùng:
a) Tiểu vùng nông nghiệp Đông Nam bộ:
- Gồm các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, TP. Hồ Chí Minh.
- Diện tích đất tự nhiên 2.354.456 ha trong đó đất nông nghiệp 1.446.296 ha. Đất chưa sử dụng 195.137 ha, trong đó 47.548 ha đất bằng.
- Bình quân trên nhân khẩu nông nghiệp: Bình Dương 0,433 ha, Bình Phước 0,485 ha; Tây Ninh 0,339 ha.
- Các loại đất chủ yếu:
+ Đất xám bạc màu 904.551 ha chiếm 40,5% đất tự nhiên. Trong đó đất xám trên đất phù sa cổ 780.000 ha như Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, TP. Hồ Chí Minh.
+ Đất đỏ vàng 922.673 ha chiếm 41,3%. Trong đó đất nâu đỏ trên đá bazan khoảng 470.000 ha (chiếm 21%) như vùng feralit nâu đỏ trên bazan Xuân Lộc, Phước Bình, Phú Riềng, Lộc Ninh, Bố Đức.
+ Đất phù sa các loại 102.459 ha chiếm 4,59%.
+ Đất xám trên phù sa cổ có thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước, chua pHKCl (3,6 - 3,9), nghèo mùn (1,4%). Nghèo đạm tổng số (0,08 - 0,05) và lân tổng số (0,017 - 0,011), mức độ phân giải chất hữu cơ trung bình (C/N 1 - 6), cation kiềm trao đổi nghèo. Đất xám giây có hàm lượng mùn và các chất dinh dưỡng khá hơn so với đất xám trên phù sa cổ. Nhìn chung đất xám trên phù sa cổ 90% có tầng đày trên 50cm, phân bố ở địa hình bằng phẳng, hoặc thoải, thường có nước ngầm nông, đất dễ thoát nước, dễ làm đất. Cần chú ý bón phân hữu cơ, phân xanh, tủ đất giữ ẩm, tưới nước mùa khô.
+ Đất nâu đỏ trên đá bazan có phản ứng chua PHKCI 3,8 - 4,0 mùn và đạm tổng số trung bình (tương ứng tầng mặt 2,0% mùn, và 0,11% đạm) các tầng sâu 1,33% và 0,04%. Lân tổng số khá tầng mặt 0,18%, các tầng sâu 0,14%; cation kiềm trao đổi thấp, mức độ phân giải chất hữu cơ yếu (C/N = 24).
+ Đất phù sa miền Đông Nam bộ cũng có mức độ phân hóa khác nhau theo hệ thống sông: Đất chua pHKCl tầng mặt 3,2 - 4,2, tầng sâu 2,5 - 4,1. Hàm lượng mùn từ trung bình đến khá, tầng mặt 1,7 - 4,0%, các tầng sâu 0,6 - 1, 5%. Lân tổng số nói chung nghèo (nhỏ hơn 0,05%)
+ Đất phù sa Bình Dương hàm lượng lân khá (0,10 - 0,12%). Mức độ phân giải chất hữu cơ trung bình đến yếu (C/N > 12), lượng cation kiềm trao đổi thấp (< 3 meq/100g đất).
- Nhìn chung đất miền Đông Nam bộ dày (tầng dày trên 70cm chiếm 80%) và bằng phẳng (độ dốc dưới 15° chiếm 92%), ít chia cắt, tập trưng thành vùng lớn, thuận lợi cơ giới hóa, giao thông.
- Vùng này mùa khô gay gắt, thiếu nước mặt, tuy nước ngầm thuận lợi. Trong vùng có 245 công trình thủy lợi, công suất thiết kế tưới cho 215.000 ha, nhưng đến 1999 mới tưới được 100.0 ha (dùng nước mặt) cho 20% diện tích cây trồng. Công trình thủy lợi Dầu Tiếng, thiết kế tưới 175.000 ha, mới khai thác tưới trên dưới 80.000 ha. Hồ Trị An cũng chưa khai thác tưới dược nhiều. Các công trình khác như Phước Hòa (Bình Dương), Đá Đen, Song Ray (Vũng Tàu) phấn đấu tưới 150.000 ha.
- Nguồn nưức ngầm đã khai thác tưới cho cà phê, mía, cây ăn quả...
- Trong vùng hiện diện tích rừng giảm, các khu công nghiệp đang phát triển, nên hạn chế một phần ầắt khai thác cho cây trồng, như các khu công nghiệp ở Bình Dương đã đẩy vùng mía của nhà máy đường Bình Dương ngày càng đi xa dần và cuối cùng nhà máy phải tháo dỡ và di dời về Hậu Giang.
- Những cây cạnh tranh với mía là cà phê, cao su, điều, lạc, bông.
- Vùng này giao thông đường bộ, đường thủy phát triển, dân trí cao, đã có kính nghiệm trồng mía cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy đường Suối nước Trong (Tây Ninh), Bình Dương, La Ngà.
- Điều kiện khí hậu Đông Nam bộ, quanh năm nóng ẩm, đầy đủ ánh sáng, cây mía sinh trưởng' tốt, đến mùa mía chín vào mùa khô, biên độ nhiệt cao trên 12° giúp mía chín tốt. Mùa thu hoạch khô ráo, 150 ngày hay hơn một ít.
- Đất đai tương đối tập trung có thể hình thành những vùng mía phục vụ các nhà máy 300 - 600 TMN. Có điều kiện phát triển thủy lợi để tưới cho mùa khô.
- Tiềm năng mía đường “hiện đại” vào loại tốt.
b) Tiểu vùng nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long:
- Gồm các tỉnh Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, An Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.
- Diện tích đất tự nhiên 3.965.314 ha (12% cả nước). Đất nông nghiệp 2.922.699 ha chiếm 73,71% diện tích đất tự nhiên, và 34,73% đất nông nghiệp cả nước.
- Đất hoang hóa chưa sử dụng 227.214 ha (5,30% điện tích đất tự nhiên). Bình quân đất nông nghiệp trên đầu người 1,752 ha.
- Đất đồng bằng sông Cửu Long được bồi đắp và tưới bởi sông Cửu Long. Các nhóm đất chủ yếu là:
+ Đất phèn vầ phèn mặn 1.885.890 ha chiếm 47% diện tích đất tự nhiên
+ Đất phù sa 960.734 ha chiếm 23% diện tích đất tự nhiên
+ Đất mặn 703.452 ha chiếm 17,5% diện tích đất tự nhiên
- Ngoài ra còn các loại đất khác như cát biển, than bùn đất xám, đất đỏ vàng.
- Đất phèn: Đất phèn nhiều ở địa hình thấp trũng, rất chua pHH20 2,5 - 3,5, càng xuống sâu càng chua. Đa số còn hoang hóa. Đất phèn ít và trung bình ở địa hình trung bình và thấp, thành phần cơ giới nặng, chặt, cứng rắn khí khô ráo, dẻo, quánh khi ướt. Phản ứng ít chua hơn pHH20 3,5 - 4,5.
- Mùn và đạm tổng số trung bình đến khá, ở các tầng mặt mùn trung bình 2 - 4%, đạm trung bình 0,1 - 0,3%, lân tổng số rất nghèo. Mức độ phân giải chất hữu cơ yếu (C/N từ 10 - 30). Đất này đã được khai thác trồng 1 hoặc 2 vụ lúa.
- Đất phèn, mặn thành phần cơ giới nặng (sét nhẹ) ít thoát nước, PHKCl 3,0 - 3,5. Đa số hàm lượng mùn và đạm từ khá đến giàu. Tầng mặt mùn 3 - 5%; đạm tổng số 0,15 - 0,4%, lân tổng số nghèo (< 0,05%), lân dễ tiêu nghèo < 5 mg/100g đất. Na+ trung bình 2 - 4mg/100g đất.
- Phẫu diện đất phèn mặn, thường đặc trưng có một tầng tích tụ xác hữu cơ và có kết vón. Đây là nhóm đất còn nhiều diện tích hoang hóa nhất.
- Đất phù sa sông Cửu Long: Trong 960.734 ha phù sa có 420.236 ha (43%) đất phù sa thoát nước, 535.368 ha (53%) phù sa ít thoát nước; 51.986 ha (5,4%) được bồi hàng năm và 346.600 ha (36%) đất phù sa được lên líp. Nói chung phù sa sông Cửu Long là loại đất tốt, ở địa hình bằng phẳng, có thành phần cơ gíớí nặng. Phản ứng đấi ít chua (pHH20 từ 5,1 - 6,4), không phèn, không mặn. Chất hữu cơ và đạm ở các tầng mặt trung bình, mùn 3,1 - 1,7%; đạm tổng số trung bình 0,165 - 0,138, lân tổng số nghèo đến trung bình (0,08 - 0,095), lượng cation trao đổi từ thấp đến trung bình C/N 9-8.
- Đất mặn: phân bố ở địa hình trung bình đến thấp. Hàm lượng mùn và đạm tổng số khá ở tầng mặt. Nhược điểm là cú mức độ mặn khác nhau, nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của thủy triều, ảnh hưởng không tính đến sinh trưởng của cây trồng. Một phần đáng kể loại đất này còn bỏ hóa.
- Tóm lại đất Đồng bằng sông Cửu Long phân bố thành những vùng khá lớn, đồng nhất về đặc điểm, nằm theo các vùng địa lý rõ rệt. Đất có độ phì trung bình đến khá, đất còn non trẻ, tác động biến đổi của sản xuất còn ít. Hầu hết có thành phần cơ giới nặng, bị tác động của 2 mùa: mưa và khô. Đất có hàm lượng chất hữu cơ khá, đạm tổng số từ trung bình đến khá, lân tổng số từ nghèo đến trung bình. Hơn 50% diện tích đất chua và rất chua. Sông Cửu Long có mùa lũ từ tháng 8 - 11, nước sông lên từ từ, đến đỉnh lũ vào cuối tháng 9 đầu tháng 10; rồi xuống từ từ cho đến tháng 11 đi vào mùa cạn. Nước lũ gây ngập 1.632.000 ha đất đai của 8 tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Long An, Kiên Giang, cần Thơ, Tiền Giang, một ít của Vĩnh Long, Bến Tre,
- Trong mùa cạn, nước sông xuống thấp, triều xâm nhập sâu vào sông, có nơi đến 150km. Từ 1985 đến nay Nhà nước đã đầu tư phát triển mạnh các công trình thủy lợi, đến nay đã cản bản định hình được thống trục, tạo nguồn nước tưới, tiêu chua, xổ phèn, đắp bao ngăn mặn, chông lũ. Đến năm 1999 đã có 2.085 công trình đưa vào phục vụ sản xuất:
+ Các công trình chống lũ, tạo nguồn nước ngọt đẩy èn cho vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Tây sông Hậu.
+ Các công trình ngọt hóa Gò Công, Quản Lô - Phụng Hiệp, Nam Măng Thít.
+ Các công trình thoát lũ ra biển Tây (1.000 m3/s), ra sông Tiền, sông Vàm Cỏ (300 m3/s) giảm chiều sâu và thời ngập cho các vùng ngập.
+ Về giao thông: Chủ yếu là đường thủy, kênh rạch chằng chịt, có cảng biển giao thông quốc tế.
- Về kinh tế đây là vùng sản xuất và xuất khẩu gạo chủ yếu của cả nước. Thủy hải sản phát triển. Cây ăn quả đa dạng phong phú. Tuy vậy công nghiệp mới bắt đầu phát triển.
- Người nông dân vùng này cũng đã có kinh nghiệm trồng mía, chế biến lò thủ công từ lâu đời. Sau 1975 diện tích, sản lượng mía liên tục phát triển. Từ 1983 - 1987 sản lượng mía vùng này chiếm 45 - 50% sản lượng cả nước, năng suất cao hơn năng suất mía cả nước 14 - 23%.
- Đồng bằng sông Cửu Long với điều kiện khí hậu ôn hòa, quanh năm nóng, ẩm, đầy đủ ánh sáng và nước; biên độ nhiệt ngày đêm cao, nên nói chung cây mía sinh trưởng tốt, thời gian sinh trưởng dài nên mía được trồng trên đất cồn như ở Cù Lao Dung, hay trên đất lên líp. Mùa thu hoạch hạn chế trong mùa khô 150 ngày.
- Trừ vùng ngập lụt, các tỉnh còn lại như Bến Tre, Vĩnh Long, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng... đều có khả năng phát triển mía.
- Toàn vùng kênh rạch đan xen, giao thông vận tải chủ yếu bằng đường thủy. Mía thu ở ruộng phải “lòi” ra kênh hay sông lớn mới xếp lên thuyền lớn chở về nhà máy nên thời gian dài, ảnh hưởng đến phẩm chất. Mặt khác nền đất của vùng này sức chịu lực yếu nên hạn chế khả năng xây dựng nhà máy lớn 3.000 - 4.000 TMN.
- Tiềm năng mía đường “hiện đại” trung bình khá.