Đang nạp trang. Vui lòng đợi giây lát!
[13-03-2024] - LẤY Ý KIẾN GÓP Ý CHO DỰ THẢO TCCS/VMĐ VỀ KHẢO NGHIỆM GIÁ TRỊ CANH TÁC VÀ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG CỦA GIỐNG MÍA | [27-03-2023] - TB TUYỂN CHUYÊN GIA VÀ PHIÊN DỊCH VIÊN LÀM VIECJ TẠI CUBA | [24-03-2023] - ĐĂNG KÝ ỨNG VIÊN XÉT BỔ NHIỆM CHỨC DANH GIÁO SƯ, PHÓ GIÁO SƯ NĂM 2023 | [24-03-2023] - Ban Thông tin và Đào tạo - VAAS | [30-08-2022] - Thông báo về việc cung cấp tài liệu tham khảo môn thi Kiến thức chung - Kỳ thi tuyển dụng viên chức làm việc tại Cơ quan Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam và một số đơn vị trực thuộc năm 2022 | [10-08-2022] - Thông báo tuyển dụng viên chức làm việc tại Cơ quan Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam và một số đơn vị trực thuộc năm 2022 | [18-04-2022] - Thông báo về việc tuyển dụng viên chức năm 2022 | [04-07-2014] - Viện Nghiên cứu Mía đường chính thức ra mắt Ngân hàng kiến thức trồng mía |
Xem TIN TỨC
Mía đường gặp khó thời hội nhập
Monday - 12-02-2018 | 09:27:10 AM

Bài 2: Khó khăn trên con đường cạnh tranh

Trong bối cảnh hội nhập thì ngành chức năng và nhà máy đường đều hiểu rằng, để mặt hàng đường của Việt Nam có thể cạnh tranh với các nước khu vực ASEAN thì cần giải quyết vấn đề cốt lõi là giá thành sản xuất phải thấp. Thế nhưng, khi nhìn vào thực trạng vùng mía nguyên liệu của ĐBSCL nói chung và Hậu Giang nói riêng, cũng như năng lực sản xuất của các nhà máy đường nơi đây thì vấn đề “giá thành thấp” đang đặt ra nhiều thách thức.

Mọi khâu sản xuất mía của nông dân Hậu Giang đều bằng thủ công, trong khi lao động nông thôn ngày một khan hiếm.

Theo Hiệp hội Mía đường Việt Nam, hiện mục tiêu về sản lượng mía hàng năm đã đạt và vượt kế hoạch đề ra khi mỗi năm cả nước sản xuất hơn 1 triệu tấn đường. Song, một nghịch lý đang tồn tại là giá đường sản xuất trong nước quá cao so với các nước trong khu vực đã gây khó trong tiến trình cạnh tranh.

Thực trạng vùng mía

Tuy ĐBSCL là vùng có diện tích mía lớn nhất của cả nước, nhưng do đặc thù về thổ nhưỡng là vùng trũng thấp và bị ngập lũ hàng năm nên tình hình sản xuất mía của người dân nơi đây còn gặp nhiều khó khăn. Điển hình tại vùng mía Hậu Giang, đa phần người trồng mía nơi đây có diện tích nhỏ lẻ, manh mún khi bình quân dưới 1ha/hộ và hầu hết diện tích mía đều có mương rãnh xen lẫn đất liếp mía nên việc sản xuất ở các khâu như: đào hộc, trồng mía, đánh lá, vô chân, thu hoạch… chủ yếu là lao động thủ công mà chưa được cơ giới hóa. Trong khi lực lượng lao động ở nông thôn ngày một khan hiếm do người dân bỏ quê lên thành phố làm công nhân tại các công ty, từ đó dẫn đến giá thuê nhân công tăng mạnh qua các năm, nhất là vào thời gian cao điểm mùa vụ. Theo tính toán sơ bộ của nông dân, hiện công lao động thủ công chiếm hơn 60% tổng chi phí giá thành sản xuất mía.

Ông Nguyễn Văn Hiệu, nông dân trồng mía ở thị trấn Búng Tàu, huyện Phụng Hiệp, chia sẻ: “Đất mía ở đây mương rãnh nhiều, từ đó sử dụng lao động thủ công là chính. Do lao động thủ công nên cần có lực lượng nhân công nhưng trong những năm gần đây thì lực lượng này lại ít dần đã kéo theo giá thuê tăng. Cụ thể, tiền mướn nhân công thu hoạch mía trong vụ vừa qua lên đến 180.000-220.000 đồng/tấn, tăng trung bình 30.000 đồng/tấn so với cùng kỳ”.

Do điều kiện đất thấp và bị ngập lũ nên nhiều diện tích mía trên địa bàn tỉnh Hậu Giang không thể lưu gốc mía mà phải trồng mới lại hoàn toàn hàng năm. Thế nhưng, hoạt động cung cấp mía giống của tỉnh còn nhiều hạn chế nên luôn thiếu nguồn giống vào đầu mỗi niên vụ và nông dân đành bóp bụng mua mía giống do thương lái chở từ một số vùng mía khác đem về bán với giá cao. Hơn nữa, việc đa dạng giống mía mới chưa được quan tâm nhiều nên bà con thường quanh quẩn với một số giống mía quen thuộc trong nhiều năm qua như: ROC 16 chiếm hơn 61% diện tích mía của toàn tỉnh, còn lại là giống K88-92, Suphanburi 7, K95-289 hay R570. Việc sử dụng cùng loại giống qua nhiều năm và trên diện tích lớn cũng dễ phát sinh dịch bệnh, nông dân phải tốn tiền mua thuốc phòng trừ và năng suất cũng bị ảnh hưởng theo chiều hướng giảm. 

Ông Dương Hoàng Trung, ở ấp Hiệp Hòa, xã Hiệp Hưng, huyện Phụng Hiệp, thông tin: “Đã nhiều năm qua, người dân vùng này chỉ canh tác giống mía ROC 16 và do không có nguồn mía giống tại địa phương nên thường mua mía giống ở tỉnh Sóc Trăng được thương lái chở về bán với giá cao, dao động từ 1.700-2.000 đồng/kg. Tôi nghĩ, ngành chức năng và nhà máy đường cần tạo ra nguồn mía giống tại chỗ để nông dân mua với giá rẻ hơn so với mua ngoài tỉnh”.

Ngoài ra, do vùng mía Hậu Giang thường bị ngập lũ, trong khi hệ thống đê bao chưa khép kín, nông dân phải thu hoạch mía sớm nên đầu vụ tỷ lệ mía có chữ đường (CCS) thấp. Bên cạnh đó, một nguyên nhân khác khiến CCS trong mía thấp là do thời gian từ lúc mía được nông dân đốn xong cho đến khi mía đưa lên bàn cân rồi vào nhà máy ép thường mất thời gian từ 5-7 ngày. Bởi, đa phần thương lái vận chuyển mía bằng ghe và nằm chờ tài tại các nhà máy. Hiện tại, bình quân chữ đường của vùng mía Hậu Giang chỉ đạt từ 9-9,5 CCS. Từ những thực trạng trên, cộng với giá vật tư nông nghiệp ngày một tăng đã kéo theo chi phí sản xuất mía cao và hiện dao động từ 720-750 đồng/kg mía nguyên liệu.

Theo Viện Nghiên cứu mía đường Việt Nam, giá thành sản xuất mía nguyên liệu chiếm đến 70% trong tổng số giá thành sản xuất ra 1kg đường. Thế nhưng, mức giá sản xuất mía nguyên liệu tại các tỉnh ĐBSCL đang cao hơn rất nhiều so với các nước có mía trong khu vực ASEAN. Đơn cử như tại Thái Lan, do đa phần nông dân áp dụng cơ giới hóa trong các khâu sản xuất nên hiện giá thành sản xuất 1kg mía của nông dân Thái Lan khi đem về tới nhà máy đường chỉ từ 700-750 đồng/kg, trong khi tại các nhà máy vùng ĐBSCL trong nhiều năm qua là 1.000 đồng/kg do thực trạng sản xuất mía nơi đây mang lại.

Năng lực sản xuất nhà máy đường hạn chế

Ngoài những thách thức về điều kiện sản xuất của vùng mía nguyên liệu, một thực trạng khác cũng làm cho chi phí sản xuất đường tăng so với các nước trong ASEAN cần phải nhìn nhận là năng lực sản xuất của các nhà máy đường trong nước nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng còn rất hạn chế. Hiện công suất ép mía của các nhà máy đường vùng ĐBSCL chỉ dao động từ 2.000-3.500 tấn mía/ngày đêm, lượng đường hàng năm của cả nước đạt khoảng 1,5 triệu tấn. Trong khi Thái Lan, mỗi năm nước này sản xuất đến 12 triệu tấn đường, nhưng nhu cầu tiêu thụ đường trong nước chỉ 2,5 triệu tấn. Lượng đường còn lại thường xuất khẩu ra bên ngoài, trong đó Việt Nam được xem là thị trường “béo bở” của các nước ASEAN, nhất là điều kiện rào cản thuế quan đang ở mức như hiện nay và sắp tới là không còn. Mặt khác, việc đường Thái Lan có giá thành sản xuất thấp nên kéo theo giá bán đang thấp hơn khoảng 1.000 đồng/kg so với đường Việt Nam. Chính điều này dẫn đến tình trạng đường Thái Lan đang dần chiếm lĩnh thị trường đường trong nước và đẩy các nhà máy đường Việt Nam lâm vào cảnh chật vật tìm thị trường đầu ra. 

Ngoài công suất ép thấp, một thực tế khác là hiện trang thiết bị tại các nhà máy đường vùng ĐBSCL chưa thực sự hiện đại so với các nước trong khu vực, từ đó làm thất thoát CCS trong quá trình sản xuất, đẩy chi phí tăng. “Hiện tại, tỷ lệ mía/đường trong sản xuất của các nhà máy của Casuco rất cao, tương đương khoảng 11kg mía mới cho ra 1kg đường. Nguyên nhân một phần là do công nghệ sản xuất nhưng cái chính là chất lượng nguồn mía nguyên liệu khi lẫn nhiều tạp chất”, ông Nguyễn Hoàng Ngoan, Phó Tổng Giám đốc Casuco, thông tin.

Nhìn chung, tình hình sản xuất mía đường của vùng ĐBSCL nói chung và Hậu Giang nói riêng còn nhiều mặt hạn chế nên tính thiếu bền vững đã xuất hiện trong thời gian qua khi diện tích mía hàng năm giảm liên tục để nhường chỗ cho nhiều loại cây trồng khác. Tại Hậu Giang, nếu diện tích trồng mía của niên vụ 2011-2012 là 14.195ha thì đến niên vụ 2017-2018 này chỉ còn gần 10.800ha. Đặc biệt, trước thách thức khi AFTA chính thức có hiệu lực tại Việt Nam thì nguy cơ giảm diện tích trồng mía còn tăng do việc sản xuất được dự báo tới đây sẽ không đem lại hiệu quả cao cho người trồng mía lẫn các nhà máy đường.

Ông Cao Anh Đương, Viện trưởng Viện Nghiên cứu mía đường Việt Nam, cho rằng: Nếu các nhà máy đường trong nước không có những thay đổi đối với các điểm bất lợi đang tồn tại thì khó có sức cạnh tranh với các sản phẩm đường từ các nước trong khu vực khi chúng ta đang nỗ lực thực hiện tiến trình hội nhập. Vì vậy, cần sớm tổ chức lại sản xuất và có những giải pháp căn cơ, bền vững hơn để diện tích mía tiếp tục duy trì và phát triển, doanh nghiệp có thể trụ vững trước sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường đường như hiện nay.   

Bài, ảnh: H.THU - H.PHƯỚC


 

TIN CÙNG CHUYÊN MỤC
BÌNH LUẬN

Video
bình luận mới
Đoàn Quang Phong
Gửi TS Đỗ Ngọc Diệp Đọc bài viết của TS tôi rất tâm dắc.Vấn đề cơ gới hoá thu hoạch là khâu cấp thiết giá thành thu hoạch cụ thể giảm chi phí 70000/tấn, tận thu hầu hết nguyên liệu gốc, phần loại bỏ được trả lại cho đất. nói chung máy thu hoạch phải đạt những tính năng như TS đã nêu.Tôi xin giới thiệu với ông mô hình tôi đã mày mò(www.youtube.com/watch?v=N_YppX5wEq4),cần sự cộng tác để hoàn thành. Những bất cập trên mô hình chẳng qua chỉ thiếu vốn đầu tư mà thôi. Tôi mong rằng Viện nghiên cứu qua ông quan tâm. Tôi chỉ là nông dân trồng mía rất nhọc nhằn trong khâu thu hoạch nên quyết tâm suy nghĩ thế thôi. Rất mong được cơ quan, cá nhân có tâm huyết và khả năng tiếp nhân để sản xuất máy công cụ này. Rất mong được trao đổi
Nguyễn Thế Hữu
Chân thành cảm ơn Chú Diệp! Bài viết của Chú rất hữu ích và mang nhiều ý nghĩa thực tế trong ngành trồng mía hiện nay. Chúng cháu kính chúc Chú luôn dồi dào sức khỏe để còn dẫn lối nhiều hơn nữa cho ngành mía đường Việt Nam.
Nguyễn Thế Hữu
Dear quý Anh/Chị đồng nghiệp! Hiện nay tôi đã được 1 người thân giúp đỡ và lấy được những tài liệu dạng fulltext từ tạp chí chuyên xuất bản những nghiên cứu về cây mía "Sugar Tech", Anh/Chị nào cần file fulltext để tham khảo thêm thì liên hệ với tôi qua email: nthuu@hotmail.com hoặc số phone: 0983.832.776 Lưu ý: Anh/chị chỉ cần gửi tên đầy đủ của nghiên cứu qua email. Trân trọng!
Bùi Anh Văn
Gửi anh Đông anh có thể tải về và tham khảo tại đây: http://www.mediafire.com/?b9jl3g7272zh17e http://www.mediafire.com/view/?fr8e2frdhj60l2f
Phan Văn Toàn
Kính gửi Quý Viện Để muốn có các tài liệu nghiên cứu trên phải mua trên mạng với giá 20 - 40 USD, vì vậy Quý Viện có quỹ nào để mua và cung cấp cho đọc giả tham khảo kịp thời các tiến bộ kỹ thuật. Trân trọng cảm ơn! Sugar Tech June 2012 , Volume 14 , Issue 2 , pp 126-133 Wider Row Spacing in Sugarcane: A Socio-economic Performance Analysis T. Rajula Shanthy , GR Muthusamy Purchase on Springer.com $39.95 / €34.95 / £29.95 * * Final gross prices may vary according to local VAT.
lịch việt
quảng cáo tài trợ
Thống kê
49714
Tổng số khách đã viếng thăm